CHÀO MỪNG QUÝ VỊ VÀ CÁC BẠN ĐẾN VỚI WEBSITE TRUNG TÂM KHẢO NGHIỆM KHUYẾN NÔNG KHUYẾN NGƯ THÁI BÌNH
Giới thiệu chung
Cơ cấu tổ chức
Lịch sử khuyến nông
Chức năng nhiệm vụ
Kết quả nghiên cứu
Trồng trọt
Chăn nuôi
Thủy sản
Trồng trọt
Chăn Nuôi
Thủy Sản
 
Hỏi & đáp
Số lượt truy cập:
 

Tin Tức khuyến nông
Xử lý rơm rạ sau thu hoạch - vấn đề cần quan tâm

Cập nhật: 13/12/2023

    Rơm rạ là nguồn chất hữu cơ khổng lồ, chiếm đến 50% trọng lượng của cây lúa, vì vậy mỗi ha trồng lúa có đến 10 - 12 tấn rơm rạ. Thái Bình, với 150 ha sản xuất lúa/năm, mỗi năm có thể thu khoảng 1500 - 1800 tấn rơm rạ. Tuy nhiên, hiện nay mới chỉ có một phần nhỏ lượng rơm rạ này được tận thu để làm nguyên liệu sản xuất nấm ăn, làm thức ăn chăn nuôi, hoặc để sản xuất các dụng cụ gia dụng thân thiện với môi trường, làm vật liệu phủ luống trồng rau, màu, làm phân bón... Còn lại, phần lớn rơm rạ sau khi thu hoạch thường được bà con nông dân đốt hoặc thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm nguồn đất, nước, không khí và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người.


Thành phần hóa học của rơm rạ tính theo khối lượng khô gồm 60% xenluloza (cellulose), 14% linhin (lignin), 3,4% đạm hữu cơ (protein), 1,9% chất béo (lipid). Nếu tính theo nguyên tố thì Cácbon (C) chiếm 44%, Hyđrô (H) chiếm 5%, Oxy (O) chiếm 49%, Ni tơ chiếm khoảng 0,92%, một lượng rất nhỏ Phốtpho (P), Lưu huỳnh (S) và Kali (K).


Khi đốt rơm rạ lượng C, H, O biến hết thành các khí CO­2, CO và hơi nước. Protein bị phân hủy và biến thành các khí NO2, NO3, SO2… bay lên. Trong tro chỉ còn lại ít P, K, Ca và Si… nghĩa là giá trị về mặt khoáng chất, chất hữu cơ không còn nhiều. Khi đốt rơm rạ, nhiệt độ cao làm đất chai cứng, kết cấu đất bị phá vỡ, vi sinh vật bị chết nên khả năng giữ nước, giữ phân kém; rơm rạ và các chất tồn dư phân hủy chậm, sinh ra các độc tố làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây trồng, làm giảm khả năng chống chịu, giảm năng suất cây trồng, tăng thêm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật... Đồng thời, phần rơm, rạ đưa ra đường giao thông gây cản trở người tham gia giao thông hoặc khi đẩy trực tiếp xuống các dòng sông, mương máng gây ô nhiễm nguồn nước, ách tắc dòng chảy ảnh hưởng đến công tác tưới tiêu.


 


Đặc biệt, trong thời gian gần đây, nhu cầu sử dụng rơm rạ làm vật liệu đun nấu, chăn nuôi không còn nhiều; nguồn phân bón chủ yếu lạm dụng phân hóa học, không coi trọng bổ sung nguồn phân hữu cơ; bên cạnh đó nguồn nhân lực lao động nông nghiệp hạn chế, bà con nông dân chủ yếu là sử dụng máy gặt đa năng nên đa phần lượng rơm rạ được để lại trên đồng ruộng.


Vậy nên, nếu lượng rơm rạ này được sử dụng đúng cách sẽ mang lại lợi ích rất lớn về hiệu quả kinh tế và môi trường. Có một số hướng sử dụng nguồn rơm rạ có thể áp dụng như sau:


1. Sử dụng rơm rạ làm phân bón


Thứ nhất: Rơm rạ xử lý trực tiếp trên đồng ruộng làm phân bón:


Có lẽ đây là phương án phổ biến nhất hiện nay, đặc biệt là sau thu hoạch lúa vụ Xuân, vì: Thời gian chuyển từ vụ Xuân sang vụ Mùa rất ngắn, ruộng thu hoạch lúa Xuân thường còn ướt “không mất lấm”, nên đa phần lượng rơm rạ không được thu gom mà để lại ngay trên ruộng. Khi rơm rạ không kịp phân hủy, cây lúa dễ bị hiện tượng ngộ độc hữu cơ sau cấy.


Trường hợp này, nên làm như sau:


Ở vụ Xuân, giữ mực nước nông lúc thu hoạch, tránh để hiện tượng mất lấm.


Cày lồng dập rạ ngay sau khi thu hoạch.


Tốt nhất nên sử dụng máy làm đất cỡ trung trở lên để lồng ấn chìm rạ trong lớp đất canh tác. Nếu sử dụng máy cày nhỏ thì cần phải lồng nhiều lần.


Sau đó sử dụng 15 - 20 kg vôi bột hoặc phân vi sinh hoặc các chế phẩm xử lý rơm rạ để rắc trực tiếp trên ruộng, đưa nước vào ruộng ngập 7 - 10 cm, sau 7 - 10 ngày là có thể bừa cấy.


Phân vi sinh là loại phân kết hợp nhiều chủng vi sinh vật hữu ích, khi rắc vào gốc rạ có tác dụng phân giải nhanh các chất xơ như rơm rạ, làm đất tơi xốp, thoáng khí, giảm được hiện tượng ngộ độc hữu cơ. Đối với các chế phẩm xử lý rơm rạ, có tác dụng phân hủy nhanh rơm rạ và các chất hữu cơ, hạn chế các vi sinh vật gây hại.


Thứ 2: Rơm rạ được thu gom lại để ủ thành phân bón: Với thực trạng lao động hiện nay, rất khó để áp dụng. Tuy nhiên, khi sản xuất tập trung hoặc tại các cơ sở sản xuất tuần hoàn nên áp dụng phương pháp này.


Tận dụng toàn bộ phế phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ, trấu..); phân lợn, trâu, bò...; dịch thải hầm bioga hoặc nước phân chuồng... phun hoặc rắc bổ sung thêm các chất xúc tác, chế phẩm sinh học, vôi bột, tưới ẩm và ủ đống. Lưu ý, thường xuyên đảo đều đống ủ, trong quá trình ủ đống cần kiểm tra, nếu bị khô phải tưới bổ sung thêm nước. Sau một thời gian sẽ có lượng phân lớn bón cho cây trồng.


2. Sử dụng rơm rạ làm nấm, thức ăn chăn nuôi, sản xuất đồ dùng gia dụng,…


Có thể thu gom thủ công hoặc sử dụng máy thu gom rơm rạ. Hiện nay có 2 loại máy: Máy chuyên dùng để thu gom rơm rạ hoặc bộ phận máy thu gom gắn với máy kéo để tận dụng. Tùy thuộc vào quy mô sản xuất để lựa chọn phương pháp và máy móc áp dụng.


 


Sử dụng máy thường được áp dụng sau thu hoạch lúa Mùa: Giai đoạn này, thời tiết khô hanh, ruộng đã tháo cạn nước, bề mặt ruộng cứng, máy thu gom hoạt động dễ dàng, rơm khô, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật,…


Lưu ý: Rơm để làm nấm, thức ăn chăn nuôi, sản xuất đồ gia dụng phải tươi, ngon, không thu gom ở các ruộng bị nấm bệnh hoặc mục nát. Có thể tận dụng làm vật liệu phủ mặt luống, trồng rau màu...


Để thu gom thuận lợi, sau khi lúa Mùa bước vào giai đoạn chín sáp nên tháo kiệt nước ruộng, để ruộng khô ráo.


Nên cắt sát gốc để có thể thu gom được lượng rơm lớn.

Tác giả : Ths. Phạm Thị Hiên
 
Bản quyền thuộc TRUNG TÂM KHẢO NGHIỆM KHUYẾN NÔNG KHUYẾN NGƯ THÁI BÌNH
Địa chỉ: Phường Phú Khánh - Tp Thái Bình - Tỉnh Thái Bình. Điện thoại: 0363.831.842, Fax:0363.831.842. 
Email
: