1. Chọn giống
1.1. Chọn về nguồn gốc
- Chọn ngan nuôi thương phẩm phải lấy từ những đàn giống
bố mẹ tại các cơ sở được cấp phép của nhà nước.
- Đàn giống bố mẹ phải khoẻ mạnh, được tiêm phòng đầy đủ
các loại vắc xin theo quy định của cơ quan thú y.
1.2. Chọn về ngoại hình
-
Chọn những con khoẻ mạnh, mắt tinh nhanh, bông lông, không khèo chân, hở rốn.
-
Mang đặc điểm ngoại hình đặc trưng của giống: lông ngan có màu vàng chanh, có
hoặc không có đốm đen trên đầu, chân, mỏ màu hồng. Đồng đều về trọng lượng
khoảng 50g/con.
2. Chăm sóc nuôi dưỡng
giai đoạn 0 – 4 tuần tuổi
2.1. Nhiệt độ chuồng nuôi
Trước khi
đưa giống vào phải sưởi ấm chuồng trước. Nhiệt độ chuồng nuôi khi 1 - 3 ngày
tuổi phải đạt 30 - 320C, từ ngày tuổi thứ 4 trở đi mỗi ngày giảm 10C
cho tới khi đạt 20 - 250C (nhiệt độ chuồng nuôi được đo ở độ cao
trên đầu con vật nuôi).
2.2. Ẩm độ không khí
Ẩm độ
thích hợp cho ngan con là 60 - 70%, song ở nước ta ẩm độ không khí rất cao có
khi lên tới 80 - 100%. Ẩm độ cao nguy hiểm cho ngan con, nền chuồng ướt dễ làm
cho ngan con cảm nhiễm bệnh, cho nên những ngày trời nồm ẩm độ cao, thời tiết
nóng cần phải dãn đàn ngan cho mật độ thưa ra đồng thời cần phải đảo chất độn
chuồng và cho thêm chất độn chuồng khô hàng ngày để giữ cho ngan ấm chân và
sạch lông.
2.3. Chế độ chiếu sáng
Từ
tuần thứ 1 đến tuần thứ 2 thắp sáng cả ngày đêm, sau đó thời gian thắp sáng là
18 giờ/ngày. Cường độ ánh sáng trong giai đoạn 1 - 10 ngày tuổi 3 w/m2;
11 - 28 ngày tuổi 1,5w/m2. Trong thời gian này ban ngày sử dụng ánh
sáng tự nhiên.
Ở những
nơi không có điện cần thắp sáng bằng đèn dầu đảm bảo đủ ánh sáng để ngan đi lại
ăn, uống một cách bình thường, chống xô đàn và đè lên nhau gây tỷ lệ chết cao.
2.4. Thông thoáng
Lượng
cung cấp không khí phụ thuộc vào độ ẩm và quyết định bởi chất độn chuồng. Lượng
không khí trao đổi phải đảm bảo sạch, cho những khí thải của phân được đưa ra
ngoài. Trong giai đoạn 1 - 14 ngày tuổi hạn chế gió thổi mạnh vào chuồng nuôi.
2.5. Nước uống
Ngan là
loại thuỷ cầm cần rất nhiều nước uống, đảm bảo nước phải trong sạch và thường
xuyên. Ở tuần tuổi thứ nhất không cho uống nước lạnh dưới 100C, tuần
tuổi thứ 2 và 3 không cho uống nước lạnh dưới 60C và cũng cần hạn
chế cho uống nước trên 250C. Nhu cầu nước uống trung bình: 1 - 7
ngày tuổi 120 ml/con/ngày; 8 - 14 ngày tuổi 250 ml/con/ngày; 15 - 28 ngày tuổi 350
ml/con/ngày.
Nếu là
nuôi chăn thả cho uống nước những nơi nước trong, sạch, ở nơi nhốt ngan ban đêm
nên có máng nước uống.
2.6. Thức
ăn
Ngan sau
khi nở, lông khô cho ăn uống càng sớm càng tốt nếu cho ăn uống muộn thì dễ bị
khô chân, cứng hàm làm tỷ lệ hao hụt tuần đầu rất cao hoặc ảnh hưởng lớn đến
khả năng sinh trưởng và phát triển.
Dùng thức
hỗn hợp hoàn chỉnh, chất lượng thức ăn phải đảm bảo đạt 20 - 22% đạm thô, năng
lượng 2800 - 2900 kcal.
Trước khi
cho ăn phải dọn sạch máng, quét bỏ những thức ăn thừa, cho ăn làm nhiều lần
trong ngày để tránh rơi vãi và ẩm mốc, tách những con nhỏ cho ăn riêng để đàn
được đều.
2.7. Kiểm tra đàn ngan
Trạng
thái đàn ngan cho phép ta đánh giá về sức khoẻ của nó.
- Ngan
phân tán đều khắp chuồng chứng tỏ ngan khoẻ mạnh, thoải mái, nhiệt độ trong
chuồng đúng yêu cầu.
- Ngan
dồn đống là do bị lạnh, nhiệt độ chuồng nuôi thấp.
- Ngan
nằm há mỏ mà cánh dơ lên là do nhiệt độ chuồng nuôi quá cao, ngan không chơi
hoặc nằm ở khu vực nhất định là chắc chắn có gió lùa.
- Ngan bị
bết dính là do chuồng ẩm, chế độ nuôi dưỡng kém.
- Kiểm tra
sức khoẻ đàn ngan hàng ngày: Những con ốm yếu cần loại ngay ra khỏi đàn, khi
đàn ngan biếng ăn, biếng uống, phân thay đổi phải báo ngay cho cơ quan chuyên
môn.
3. Chăm sóc nuôi
dưỡng giai đoạn 5 tuần tuổi đến xuất bán
3.1. Nhiệt độ, ánh sáng
Ở giai
đoạn này nhiệt độ chuồng nuôi duy trì tốt nhất trong khoảng 20 - 250C.
Thời gian chiếu sáng duy trì 16 - 18 giờ/ngày, ban ngày sử dụng ánh sáng tự
nhiên.
3.2. Nước uống, thức ăn và dinh dưỡng
Nước uống
giai đoạn này nhu cầu cần 0,4 - 0,6 lít/con/ngày. Luôn phải có nước sạch cho
uống. Ở giai đoạn này máng ăn vẫn để trong chuồng nuôi, còn máng uống bố trí ở
sân chơi để tránh bị ướt chuồng.
Dùng thức
ăn hỗn hợp hoàn chỉnh có 18 - 19% đạm thô, năng lượng 3000 - 3200 Kcal.
Cho ăn tự
do đến khi xuất bán thịt, càng thu nhận được nhiều thức ăn trong ngày thì càng
nhanh lớn và rút ngắn được thời gian nuôi và giảm chi phí cho sản phẩm.
Kết thúc
nuôi để xuất thịt thích hợp nhất là: Ngan mái 9 - 10 tuần tuổi; Ngan trống 11 -
12 tuần tuổi
Xuất
chuồng ở thời điểm này là có hiệu quả nhất vì khi đó tăng trọng cao, tiêu tốn
thức ăn thấp, nếu để kéo dài thì hiệu quả thấp và càng về sau tiêu tốn thức ăn
cho 1 kg tăng trọng lại càng cao.
3.3. Chăm sóc và nuôi dưỡng
Đối với
phương thức nuôi kết hợp với chăn thả thì phải tập dần cho ngan xuống nước và
bơi lội. Hàng ngày thường xuyên vệ sinh máng ăn, máng uống để tránh thức ăn bị
ôi chua, mốc. Khi cho ăn tự do phải đổ thức ăn nhiều lần trong ngày để thức ăn
không bị tồn trong máng ăn dễ bị mốc. Thay nước và cung cấp đầy đủ nước uống
đặc biệt đối với phương thức nuôi nhốt trên khô và nuôi trên vườn cây.
Khi nuôi ngan
có hiện tượng mổ cắn nhau ta phải tiến hành cắt mỏ hoặc áp mỏ vào thời điểm
khoảng 6 tuần tuổi, bổ sung rau xanh cho giãn mật độ nuôi. Khi cắt hoặc áp mỏ
ta dùng dao nóng để cắt hoặc áp mỏ 1/3 phần mỏ quặp phía trên.
Hàng ngày phải bổ sung thêm chất độn chuồng bằng trấu, phôi
bào, cỏ khô, rơm rạ. Theo dõi sức khoẻ của đàn cần phải loại ra khỏi đàn những
con ốm yếu và kém ăn để có biện pháp xử lý kịp thời.
4. Lịch
phòng bệnh và tiêm phòng
Tác giả : BSTY. Bùi Thị Chuyên