1. Giống
Tùy điều kiện cụ thể mỗi địa phương, nên lựa chọn 2-3 giống chủ lực,
thuộc nhóm giống ngắn ngày, chất lượng phù hợp với thị trường tiêu thụ, sử dụng
những giống chống chịu tốt với bệnh bạc lá như:
Nhóm lúa năng suất cao, chịu thâm canh gồm: BC15,
Thiên Ưu 8, TBR225…
Nhóm lúa thuần chất lượng cao gồm: Lúa nếp, lúa
Nhật, TBR279, Đài Thơm 8, Đông A1…
Lưu ý: Những địa phương có giống đặc sản cổ truyền
ưu tiên phát triển để nâng cao giá trị; Giống lúa BT7, T10 chỉ sản xuất ở những
vùng có trình độ thâm canh cao và áp dụng đồng bộ các biện pháp canh tác tổng
hợp để hạn chế thiệt hại do bệnh bạc lá gây ra.
2. Thời vụ
- Trà mùa sớm:
+ Mạ dược
gieo 05 - 10/6, cấy khi mạ 15 - 18 ngày
tuổi;
+ Mạ nền cứng gieo 15 - 20/6, cấy khi mạ 7 - 10 ngày tuổi;
- Đại trà:
+ Mạ dược
gieo 20-25/6, cấy khi mạ 15 - 18 ngày
tuổi;
+ Mạ từ nền cứng gieo từ 01 - 05/7, cấy khi mạ 7 - 10 ngày tuổi.
Kết thúc cấy trước ngày 20/7/2019.
Lưu ý: Bà con cần chủ động dự phòng các giống có thời gian sinh trưởng ngắn
ngày, gieo tăng 5-10% mạ ở trà cuối để dự phòng khi thời tiết bất thuận gây
ngập úng làm chết mạ, chết lúa.
3. Làm đất:
Lúa xuân năm nay thu
hoạch sớm hơn mọi
năm khoảng
10 ngày, rất thuận
lợi cho quá trình xử lý rơm rạ, làm đất cấy vụ mùa, tuy nhiên
bà con không được chủ quan.
Bà con cần thực
hiện nghiêm việc không đốt rơm rạ, đồng thời cần huy động tối đa lực lượng, phương tiện máy móc khẩn
trương làm đất, đẩy nhanh tiến độ cày lật đất. Sử dụng các loại máy cày có công
suất lớn, thu hoạch lúa xuân đến đâu tiến hành cày lật đất ngay đến đó.
Trong quá
trình làm đất cần giữ nước và nên bón mỗi sào từ 20 - 25 kg vôi bột hoặc bón 7 - 10 kg
phân vi sinh Azotobacterin ngay trước khi lồng dập rạ, hoặc dùng chế phẩm xử lý
rơm rạ như Sumitri, AT-YTB… trộn đều với
cát để vãi trước hoặc sau khi lồng dập rạ, sau đó giữ nước nông khoảng 7 - 10
ngày là có thể bừa cấy được.
Tác giả : ThS. Nguyễn Thị Nguyệt