Phòng và trị bệnh một số bệnh thường gặp trong nuôi thỏ thương phẩm đảm bảo vệ sinh môi trường
1.
Bệnh cầu
trùng
Nguyên nhân: Do đơn bào ký sinh Eimeria gây nên trong điều kiện
chăn nuôi vệ sinh kém. Thỏ con từ 2 tuần tuổi đã có thể nhiễm bệnh từ phân thỏ
mẹ thải ra. Thỏ từ 6 – 18 tuần tuổi thường mắc bệnh này.
Triệu chứng: Thỏ kém ăn, bị xù lông, đôi khi bị ỉa chảy; nếu kết
hợp với bệnh viêm ruột, phân có thể lẫn máu. Thân nhiệt cao hơn bình thường,
chảy nước mũi, nước dãi. Thời gian mang mầm bệnh kéo dài, thỏ gầy dần rồi chết.
Bệnh có thể gây chết 50% tổng đàn.
Phòng bệnh: Đáy lồng chuồng phải có lỗ, rãnh thoát phân dễ dàng;
dọn vệ sinh hàng ngày. Tăng cường sức đề kháng cho thỏ bằng cách bổ sung Viatamin,
các loại thức ăn có chất lượng. Có thể sử dụng các loại thuốc trên để phòng
bệnh với liều sử dụng bằng 1/2 liều điều trị.
Trị bệnh: Dùng các loại Sulfamit như Sulfathiazol,
sulfadimethoxin, Sulfaquinoxalon…trộn với thức ăn tinh liều dùng 0,1-0,2g trên
1kg thể trọng, ăn trong 7 ngày liền, nghỉ 3 ngày lại cho ăn tiếp ngày nữa sẽ có
tác dụng cản trở sự phát triển của cầu trùng.
2. Bệnh tiêu chảy, bụng chướng hơi
Nguyên nhân: Bệnh xảy ra
do thỏ ăn phải thức ăn chất lượng xấu; bị chua, ôi thiu, ẩm mốc có độc tố; hoặc
do thay đổi thức ăn đột ngột hay do thức ăn thô xanh chưa xử lý chứa nhiều nước.
Bệnh thường xảy ra trên thỏ giai đoạn sau cai sữa và thỏ trưởng thành.
Triệu chứng: Thỏ bị chướng
hơi, bụng phình to, không yên tĩnh, khó thở, chảy dãi ướt lông quanh 2 mép và
tiêu chảy. Hiện tượng tiêu chảy có nhiều dạng: Phân lỏng, màu xám lẫn màng
nhày, bọt khí, lòng dạ dày có chất nhày trắng, ruột có màu hồng; phân ra ít, lỏng,
mềm, bụng thỏ căng, ruột tích hơi, chảy máu; Phân lỏng như nước, màu đen, rất
hôi thối. Thỏ có thể chết nhanh do mất nước, chất điện giải và ngạt thở.
Phòng bệnh: Sử dụng thức
ăn sạch, đảm bảo chất lượng, hợp vệ sinh; Khi thay đổi nguồn thức ăn, cần chuyển
tiếp từ từ cho thỏ quen dần; cần phơi hoặc dự trữ trước 1 ngày đối với các loại
thức ăn xanh có chứa quá nhiều nước.
Trị bệnh: Ngưng ngay
các loại thức ăn, nước uống và những yếu tố gây mất vệ sinh. Có thể sử dụng
Streptomycin pha loãng cho uống 2 – 4 lần/ ngày, hoặc cho uống ta-nin 1%, hoặc Xintominxin,
Biomixin theo hướng dẫn của nhà sản xuất, kết hợp với việc sử dụng nước chiết
xuất từ các loại lá có chất chát như búp ổi, búp trà,… và tiêm hoặc uống
Vitamin A, B để tăng sức đề kháng.
3. Bệnh xuất huyết truyền nhiễm (Rabbit
Hemorrhagic Disease – RHD)
Nguyên nhân: Do virus
Calicivirus gây ra, là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm cho thỏ. Xẩy ra ở mọi
lứa tuổi, tuy nhiên những biểu hiện lâm sàng chỉ quan sát ở thỏ từ 2 tháng tuổi
trở lên. Tỷ lệ chết trong đàn thỏ biến động từ 40 -100%.
Triệu chứng: Bệnh có thể
biểu hiện dưới 3 thể lâm sàng.
Thể siêu
cấp tính: Thỏ
chết đột ngột sau khi bị nhiễm 10 – 12 giờ mà không có triệu chứng lâm sàng
nào, biểu hiện rõ nhất là thỏ giãy giụa mạnh trước khi chết. Thường gặp vào
giai đoạn đầu của ổ dịch.
Thể cấp
tính: Thỏ
sốt cao 410C; lúc đầu thỏ có biểu hiện lờ đờ, di chuyển chậm, trước
khi chết trở nên bị kích động, chạy khắp chuồng, co giật, run cơ, kêu ré lên. Một
vài thỏ có biểu hiện nghẹt thở do xoang mũi có dịch lẫn máu và bọt. Thường xảy
ra ở giai đoạn giữa của vụ dịch.
Thể mãn
tính: Thường
thấy ở thỏ con dưới 3 tháng tuổi có trọng lượng cơ thể từ 1,0 – 2 kg và thường
xảy ra ở giai đoạn sau của vụ dịch. Thỏ bị bệnh lờ đờ, giảm ăn và biếng ăn
trong 1 – 2 ngày, biểu hiện gầy mòn, xù lông và tử vong.
+ Phòng trị
bệnh: Không
có thuốc điều trị đặc hiệu vì vậy người nuôi chỉ phòng bệnh cho thỏ. Việc phòng
bệnh trước tiên là áp dụng các biện pháp an toàn sinh học như: Kiểm dịch, cách
ly nghiêm ngặt, không nhập thịt thỏ, con giống, thức ăn ở những vùng đang có dịch
bệnh; công tác vệ sinh, định kỳ sát trùng chuồng trại. Tiêm vắc xin phòng bệnh
cho thỏ là cách phòng bệnh quan trọng nhất. Liều dùng 1ml/1 con thỏ từ 2 tháng
tuổi trở lên, tiêm dưới da hoặc bắp thịt, cách 4 – 6 tháng có thể tiêm lặp lại.
4. Bệnh tụ huyết trùng
Nguyên nhân: Do vi khuẩn
Pasteurella multocida gây ra, bệnh lây lan nhanh qua đường hô hấp. Bệnh xảy ra
trên mọi lứa tuổi của thỏ và là bệnh nguy hiểm bậc nhất đối với thỏ.
Triệu chứng: Thỏ kém ăn,
sốt cao 41 - 420C, khó thở, kết mạc mắt đỏ, chảy nước mũi có lẫn dịch
nhờn, tiêu chảy, gầy yếu dần và chết sau 2 – 5 ngày thể hiện bệnh. Bệnh ở thể cấp
tính thỏ chết rất nhanh chỉ trong vài giờ biểu hiện bệnh, hầu như không thể hiện
rõ triệu chứng.
Phòng bệnh: Không nên nhốt
thỏ vào chuồng gà, chuồng heo vì có nguy cơ lây bệnh từ các loại vật nuôi này.
Tăng sức đề kháng cho thỏ bằng cách định kỳ cho thêm vitamin vào thức ăn, hoặc
hòa vào nước uống của thỏ. Đặc biệt, vào các thời điểm giao mùa nên sử dụng các
kháng sinh (Streptomycin, Kanamycin…) với liều phòng bằng 1/2 liều điều trị để
phòng bệnh và phòng bệnh cho thỏ bằng cách tiêm phòng vacxin.
Trị bệnh: Sử dụng thuốc
đặc trị Streptomycin với liều 0,01g/ kg thể trọng, hoặc dùng Kanamycin với liều
0,05g/kg thể trọng để điều trị.
5. Bệnh ghẻ
Là bệnh phổ biến trên thỏ, tuy không
gây chết thỏ ngay nhưng thiệt hại về kinh tế rất lớn do mức độ lây lan trong
đàn rất nhanh, làm thỏ gầy yếu, chậm lớn.
Nguyên nhân: Do các loại ký sinh trùng ngoài da gây ra, chủ
yếu gồm 2 dạng: do loài ghẻ Notoedres ký sinh gây bệnh ở mí mắt, mũi, mép, móng
chân, gót chân, da vùng hậu môn và cơ quan sinh dục, do loài ghẻ Psoroptes ký
sinh gây bệnh ở lỗ tai, vành tai. Bệnh xảy ra khi điều kiện chăn nuôi vệ sinh
kém; và ở mọi lứa tuổi thỏ.
Triệu chứng: Ở các điểm ghẻ ban đầu thấy rụng lông, sau đó thấy
các vảy rộp máu trắng xám, dầy dần lên và khô cứng lại. Đôi khi dưới vảy ghẻ có
mủ do nhiễm trùng gây viêm da. Thỏ kém ăn, gầy dần và chết.
Phòng bệnh: Đảm bảo vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Chuồng nuôi phải khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát; mật độ nuôi vừa phải. Thường
xuyên kiểm tra, cách ly và điều trị kịp thời những con có biểu hiện bệnh. Có
thể sử dụng thuốc Ivermectin để phòng bệnh ghẻ với liều phòng bằng 1/2 liều
điều trị, cách 3 tháng tiêm lặp lại.
Trị bệnh: Thuốc đặc trị là Ivermectin 2.5 (hoặc
Bivermectin), sử dụng tiêm dưới da. Liều dùng: 1 ml/ 12 – 15 kg thể trọng, tiêm
dưới da.
Tác giả : BSTY. Phạm Thị Thúy An