Nhưng với sản phẩm là các giống lúa năng suất chất lượng
trung bình như TBR1, TBR36, Khang Dân
18... giá thị trường tại thời điểm hiện nay khoảng 8.500 - 9.000đ/kg gạo, lại
khó tiêu thụ, trong khi các giống lúa chất lượng cao như T10, Bắc thơm 7, năng
suất tuy có thấp hơn đôi chút nhưng giá bán cao (14.000 - 15.000đ/kg ), tính
ra hiệu quả cấy lúa chất lượng cao gấp 1,6 -1,7 lần so với cấy các giống năng
suất nhưng chất lượng trung bình. Để phấn đấu tốc độ tăng trưởng của toàn
ngành nông nghiệp đạt 4,3 % như Nghị quyết Đại hội tỉnh đáng bộ lần thứ XVIII
đã đề ra, trong điều kiện NS lúa đã chạm trần, con đường đi ra, đi lên trong ngành sản xuất
lúa chỉ có thể là con đường thâm canh lúa chất lượng hàng hóa gắn với xây dựng
thương hiệu sản phẩm.
Là một tỉnh có các giống nổi tiếng trước
đây như: Tám, Dự, Nếp cái hoa vàng... và hiện nay các giống lúa như Bắc thơm
7, T10, RVT chất lượng không thua kém gạo của Hải Hậu, Nam Định, nhưng vì chưa
có thương hiệu nên tiêu thụ còn rất khó khăn, không tránh khỏi " được
mùa thì rớt giá, mất mùa được giá " như tình cảnh chung của nhiều
hàng nông sản.
Vậy thương hiệu là gì? và tại sao
chúng ta lại chưa có thương hiệu cho sản phẩm gạo? Thương hiệu là giá trị
tạo ra trong suy nghĩ, nhận thức của khách hàng về một loại sản phẩm nào đó.
Chúng ta chưa có thương hiệu vì chúng ta chưa chọn đúng sản phẩm để xây dựng
thương hiệu, không thể có thương hiệu chung cho mọi loại gạo, mà sản phẩm ấy
phải có gì nổi trội so với sản phẩm cùng loại của địa phương khác. Do chưa
chọn đúng sản phẩm nên việc quy vùng sản xuất tập trung xác định xuất xứ (chỉ
dẫn địa lý) cho sản phẩm cũng chưa cụ thể.Với người sản xuất ra sản phẩm, kiểu
sản xuất nhỏ phân tán, mang nặng ý thức tiểu nông chạy theo lợi ích trước mắt,
đắt làm bằng mọi giá, sẵn sàng phá vỡ hợp đồng, bán xong tay là hết không cần
biết xem khách hàng nghĩ gì sau đó. Tâm lý này, cách nghĩ này cần phải thay đổi
trong cơ chế thị trường, khi bắt tay vào sản xuất hàng hóa lúa chất lượng. Mặt
khác sự liên kết giữa người sản xuất với doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu
thụ sản phẩm cùng còn nhiều hạn chế.
Đó là một số nguyên nhân cơ bản làm cho Thái Bình chưa
có thương hiệu gạo, để tăng giá trị sản
lượng trên đơn vị diện tích canh tác phải khẩn trương xây dựng vùng sản xuất lúa
gạo hàng hóa tập trung gắn với thương hiệu sản phẩm. Thực hiện định hướng trên,
xin được góp thêm một số giải pháp sau:
Vấn đề lựa chọn giống lúa làm sản phẩm
hàng hóa và xây dựng thương hiệu gạo: Hiện nay tỉnh ta đã có bộ giống lúa chất
lượng bao gồm các giống như QR1, Hương Thơm 1, Việt Hương Chiếm, BT7, T10,
RVT .... nhưng xét về ưu thế nổi trội so với các giống trên địa bàn và so với
các địa phương khác, xin đề nghị chọn giống lúa Bắc Thơm 7 hoặc RVT gọi chung
là lúa thơm Thái Bình để làm sản phẩm hàng hóa, bởi đây là 2 giống có nhiều ưu
điểm nổi trội so với các giống khác, cơm ngon vị đậm, mùi thơm. Gạo Bắc Thơm 7,
RVT đang là một trong những sản phẩm được nhân dân Thái Bình và nhiều địa phương
khác ưa chuộng. Song với giống BT7 cần phải chọn lọc lại để đảm bảo độ thuần
của giống.
Công tác quy hoạch vùng sản xuất: cần
phân định rõ vùng sản xuất lúa chất lượng cao làm sản phẩm hàng hóa ( với giống được lựa chọn
BT7 ) gắn với xây dựng thương hiệu để tiêu thụ ở trong tỉnh và vươn ra tiêu
thụ ở tỉnh ngoài và vùng sản xuất lúa chất lượng trung bình phục vụ cho nhu
cầu nội địa của người dân (với các giống QR1, BC15, HT1, Việt Hương Chiêm,
... ). Đối với vùng sản xuất hàng hóa gắn với thương hiệu chỉ bố trí ở các
huyện phía Nam như Tiền Hải, Nam Kiến Xương, Nam Thái Thụy - bởi đây là vùng
đất sâu màu, giàu dinh dưỡng tạo cho cho sản phẩm có chất lượng đặc thù. Vùng
sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng nội địa bố trí ở các huyện còn lại. Các vùng
quy hoạch cấy lúa chất lượng phải bảo đảm các điều kiện về đất đai, giao thông
thuận lợi, chủ động tưới tiêu, tập trung thành vùng hàng hóa tiện cho cơ giới.
Khuyến khích nông dân dồn điền đổi thửa phấn đấu mỗi hộ chỉ nên có 1 thửa ruộng
để canh tác, khuyến khích cho thuê hoặc chuyển nhượng ruộng đất để sản xuất,
nhằm đẩy nhanh quá trình tích tụ ruộng đất ở nông thôn, tạo điều kiện hình
thành các trang trại quy mô lớn sản xuất hàng hóa lúa chất lượng.
Xây dựng qui trình sản xuất lúa hàng
hóa theo tiêu chuẩn VietGahP, thực hiện nghiêm ngặt chế độ bón phân và phòng
trừ sâu bệnh theo nguyên tắc 4 đúng.
Tăng cường công tác quảng bá giới
thiệu sản phẩm lúa chất lượng trên các phương tiện thông tin đại chúng để
định hướng nhu cầu tiêu dùng của người dân, qua đó từng bước tạo lập giá trị
sản phẩm gạo Thái Bình. Lựa chọn doanh nghiệp có đủ năng lực và tâm huyết để tổ
chức thu mua, tiếp thị sản phẩm lúa chất lượng hàng hóa thông qua việc liên
kết xây dựng cánh đồng mẫu lớn.
Đi
liền với công tác quy hoạch Tỉnh cần tiếp tục có chính sách hỗ trợ nông dân mua
máy móc (may gặt, máy cấy..) phục vụ sản xuất để tăng năng suất lao động,
giảm thiểu tính căng thẳng về lao động
trong lúc thời vụ khẩn trưởng, góp phần hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí đầu
vào cho nông dân, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản. Khuyến khích các doanh
nghiệp làm công tác xây dựng thương hiệu tiêu thụ sản phẩm gạo của tỉnh.
Đẩy
mạnh công tác tập huấn chuyển giao TBKT, đặc biệt là kỹ thuật thâm canh giống
lúa chất lượng, kỹ thuật sử dụng các loại phân bón mới, ứng dụng các giải pháp
kỹ thuật mới, như gieo vãi, gieo thẳng, cấy máy .... nhằm tăng năng suất và
chất lượng sản phẩm, nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân đối với sản
phẩm làm ra, gây dựng niềm tin đối với khách hàng.
Xây
dựng thương hiệu gạo Thái Bình là một quá trình rất cần sự quan tâm của các
cấp, các ngành chức năng, đặc biệt là các doanh nghiệp bên cạnh đó cần tăng cường
công tác thông tin tuyên truyền, tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức và hành
động từ người sản xuất đến các nhà kỹ thuật, từ nhà doanh nghiệp đến cán bộ
quản lý trong phối hợp hành động để xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gạo. Hy
vọng rằng trong tương lai không xa, chúng ta sẽ có những vùng sản xuất lúa
hàng hóa lớn với những giống có chất lượng cao, ưu thế nổi trội, gắn với
thương hiệu riêng của mình, nhất định sản phẩm gạo với thương hiệu Thái Bình
sẽ vươn xa trên thị trường trong và ngoài nước
Tác giả : Ths. Nguyễn Như Liên