Lưu ý một số biện pháp chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho lúa Xuân 2020
Các đợt không khí lạnh cũng ảnh hưởng đến
tiến độ gieo cấy lúa Xuân nhưng nền nhiệt độ bình quân trung
bình ngày đêm đều trên 15oC, ẩm độ không khí cao xen kẽ những trận
mưa rào từ sau Lập Xuân tạo thuận lợi cho lúa Xuân bén rễ, hồi xanh, sinh trưởng
phát triển tốt.
Thời tiết diễn biến phức tạp, khó lường nên khi
chăm sóc lúa xuân, ngoài các biện pháp áp dụng đồng bộ từ đầu vụ (như: chọn giống
chống chịu sâu bệnh tốt, vệ sinh đồng ruộng, bón phân cân đối...), đến thời điểm
này cần lưu ý như sau:
1. Các biện pháp chăm
sóc:
Thường xuyên giữ mực nước
nông trên ruộng để cây lúa đẻ nhánh (2-3 cm), hạn chế cỏ dại và tăng hiệu lực của
công tác phòng trừ sâu bệnh.
Khi lúa đẻ đủ số dảnh
cơ bản, tháo cạn nước để cho mặt ruộng khô 3-5 ngày, hạn chế cho lúa đẻ nhánh
lai rai và giúp bộ rễ ăn sâu, chống đổ tốt.
Khi cây lúa bị bệnh, tuyệt đối không bón phân, đặc biệt là
phân đạm, không phun phân bón lá và thuốc kích thích sinh trưởng. Trong điều
kiện vụ xuân ấm, khô, tốc độ khoáng hóa dinh dưỡng nhanh có thể xảy ra hiện tượng
đói ăn cuối vụ. Vì vậy, giai đoạn lúa phân hóa đòng, tùy điều kiện cụ thể (như
thời tiết, sức sinh trưởng của cây, chân đất…) có thể bón bổ sung các loại phân
có hàm lượng kali cao.
2. Phòng trừ sâu, bệnh
gây hại: Với các loại bệnh chủ yếu nên áp dụng biện
pháp phòng là chính, do đó khi thâm canh cây lúa
cần áp dụng đồng bộ các biện pháp canh tác, phòng trừ dịch hại tổng hợp giúp
cây lúa khỏe ngay từ đầu vụ. Với các loại sâu hại (sâu cuốn lá, sâu đục thân, rầy...)
cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, bám sát lịch khuyến cáo phòng trừ của cơ
quan chuyên môn, của địa phương để phun trừ kịp thời.
Lưu ý với một số loại sâu bệnh hại chính trong vụ xuân:
Bệnh đạo ôn:
Thường xuất hiện
trên các giống nhiễm như BC15, TBR225, nếp địa phương… ở hầu hết các giai đoạn
của cây lúa, gây hại nặng từ giai đoạn đẻ nhánh đến trỗ bông. Bệnh phát sinh và
lây lan mạnh trong điều kiện thời tiết âm u, ẩm độ cao, ruộng cấy to, cấy dày,
bón phân không cân đối, bón nhiều đạm, bón phân muộn, ruộng trũng hẩu… Vì vậy:
Đối với bệnh đạo ôn lá: Cần phát hiện
sớm và phun phòng bệnh khi tỉ lệ bệnh còn thấp bằng các loại thuốc đặc hiệu.
Khi bệnh nặng cần dứt bỏ lá bệnh kết hợp phun thuốc nhiều
lần, mỗi lần cách nhau 3-5 ngày tùy mức độ nặng của bệnh.
Đối
với bệnh đạo ôn cổ bông: Thời điểm lúa trỗ bông, nhiệt độ thấp, độ ẩm không khí
cao, trên các giống nhiễm phải chủ động phun kép khi
lúa thấp thoi trỗ và khi trỗ xong.
Bệnh
khô vằn: Có thể gây hại trên tất cả các giống và các giai đoạn sinh trưởng
của cây. Các bẹ lá sát mặt nước, bẹ lá già ở dưới gốc thường là nơi phát sinh bệnh
đầu tiên. Bệnh khô vằn phát sinh mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao và ẩm độ
cao, đặc biệt khi có nắng, mưa xen kẽ; Ruộng cấy quá dày, quá to; Ruộng bón thừa
đạm… Nguồn bệnh tồn tại ở trên đất ruộng, gốc rạ và tàn dư trên đồng ruộng… nên
rất dễ lan truyền sang vụ sau.
Cần vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch cỏ bờ, tàn
dư thực vật, nhổ bỏ tất cả các khóm cấy dặm thừa trên ruộng, đảm bảo ruộng
thông thoáng sẽ hạn chế bệnh phát sinh gây hại.
Rầy
các loại:
Giai đoạn bộ lá còn xanh dùng có thể sử dụng các loại thuốc nội hấp, lưu dẫn để
phun. Giai đoạn lúa chín cần sử dụng
các loại thuốc tiếp xúc, vị độc và phải rẽ lúa để phun vào gốc.
Khi bị sâu bệnh gây hại: Sử dụng các loại thuốc rõ nguồn gốc, hướng đến sử
dụng các loại thuốc sinh học, thuốc có nguồn gốc thảo mộc, đảm bảo độ cách ly
theo hướng dẫn. Thực hiện theo nguyên tắc 4 đúng để đạt hiệu quả cao khi phòng
trừ.
Tác giả : KS. Phạm Thị Hiên