1.
Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 02/3/1993, Chính phủ
ban hành Nghị định số 13 quy định về công tác khuyến nông, đặt
nền móng cho sự ra đời và phát triển của hệ thống khuyến nông Việt Nam.
Trải qua 30 năm hoạt động và phát triển, hệ thống khuyến nông cả nước không ngừng
phát triển từ trung ương đến cơ sở, gắn bó mật thiết với nông nghiệp, nông dân
và nông thôn. Ngày 29/5/1993 UBND tỉnh
Thái Bình ban hành Quyết định số 336/QĐ-UBND đổi tên Trung tâm Nghiên cứu nông
nghiệp thành Trung tâm Khảo nghiệm và Khuyến nông trực thuộc Sở Nông nghiệp
(nay là Sở Nông nghiệp và PTNT) đánh dấu sự hình thành và phát triển của Trung
tâm Khuyến nông Thái Bình. Sau nhiều lần hợp nhất và đổi tên, năm 2018,
thực hiện Quyết định số 2335/QĐ-UBND ngày 17 tháng 9 năm 2018 của UBND tỉnh
Thái Bình về việc sáp nhập Trung tâm Giống Thủy sản vào Trung tâm Khuyến nông
Thái Bình, tên đơn vị sau khi sáp nhập là “Trung tâm Khuyến nông Thái Bình”.
Năm 1993 khi mới thành lập,
cơ cấu tổ chức Trung tâm gồm Giám đốc, 2 Phó Giám đốc và 7 phòng chuyên môn. Số
lượng người làm việc có 65 viên chức và người lao động, trong đó có 42 người có
trình độ đại học, 9 người có trình độ Trung cấp, 14 người là công nhân kỹ thuật
và nhân viên phục vụ.
Đến năm 2023, Trung tâm
Khuyến nông có 58 viên chức và 1 hợp đồng 68. Cơ cấu tổ chức gồm 1 Giám đốc và
01 Phó Giám đốc; có 6 phòng chuyên môn, 8 trạm khuyến nông các huyện, thành phố
và 2 trại cá (là đơn vị tự trang trải) trực thuộc Trung tâm. Về trình độ chuyên môn, hiện có 17 thạc sỹ, 48
kỹ sư, cử nhân.
Trong những năm qua, bám
sát chủ chương, chính sách của tỉnh, định hướng của ngành, Trung tâm Khuyến
nông đã có những đóng góp to lớn vào sự phát triển nông nghiệp của tỉnh Thái
Bình, cụ thể:
2.
Công tác khuyến nông giai đoạn 1993 - 2003
Những năm 1993 – 2003, yêu
cầu cấp bách trong giai đoạn này là sản xuất để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho
người dân. Đội ngũ cán bộ khuyến nông đã tăng cường công tác điều tra, phân
loại và xây dựng thành công bản đồ nông hóa thổ nhưỡng, bản đồ sử dụng đất
nông nghiệp cho khoảng 80% địa
phương trong tỉnh, từ đó làm căn cứ cho các địa phương xây dựng phương án chỉ đạo
sản xuất. Các biện pháp kỹ thuật về xác định cơ cấu giống, thời vụ gieo cấy,
gieo mạ non, cấy nông tay, bón phân cân đối… được tập huấn sâu rộng và toàn diện
tới người nông dân.
Song song với đó, Trung
tâm đã nghiên cứu, sưu tầm và du nhập hàng nghìn giống cây trồng mới để khảo
nghiệm, xây dựng mô hình, tìm ra bộ giống lúa phù hợp với điều kiện sinh thái của
tỉnh, năng suất cao vượt trội gấp 2-3 lần giống cũ, bổ sung vào cơ cấu giống cây
trồng của tỉnh. Điển hình nhất là giống Q5, Khâm Dục, BT7, Khang dân 18, … và một
số giống có khả năng chống chịu tốt như Xi23, X21, Tạp giao… được đưa vào gieo
cấy trên các chân ruộng chua trũng, kìm hãm. Việc tiếp cận các giống ngắn ngày năng suất là
bước tiến vượt trội, góp phần đưa năng suất lúa của tỉnh Thái Bình vượt mốc 5-6
tấn/vụ/ha; bước đầu làm thay đổi cơ cấu mùa vụ, tăng số vụ sản xuất, luân canh
tăng vụ, phát triển diện tích cây màu…. Trên cơ sở đó, các giống rau, màu như
giống ngô LVN10, LVN4; khoai lang Hoàng Long, KLC266; các giống đậu tương ĐT12,
DT84; … cũng được phát triển mở rộng. Đặc biệt, mô hình trồng khoai tây bằng hạt
lai đã tạo ra nguồn giống sạch bệnh cho việc phát triển cây khoai tây.
Giai đoạn này bà con nông dân “nghiện bón đạm đơn”, bón không đúng
thời điểm và chưa thấy rõ được tầm quan trọng của phân lân và kali. Trung tâm
đã xây dựng hàng chục mô hình, tổ chức hàng trăm các lớp tập huấn để nông dân
thấy được vai trò của phân lân, kali và hướng dẫn cách bón phân đảm bảo đúng thời
điểm; bón cân đối giữa đạm, lân và kali cho từng giống, từng chân đất, mùa vụ. Đồng thời, giai đoạn này Trung tâm bước đầu xây
dựng các mô hình sử dụng phân bón tổng hợp NPK trên cây trồng.
Song song với phát triển trồng
trọt, trong chăn nuôi đã thực hiện chương trình Sind hóa đàn bò, góp phần
cải tạo đàn bò vàng, nâng cao thể chất, tầm vóc đàn bò trong tỉnh. Xây dựng các
mô
hình rơm ủ ure, ủ chua thân cây ngô nhằm nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng thức ăn trong chăn nuôi, tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập
cho người nông dân; Qua đánh giá, tổng kết các mô hình, đã lựa chọn một số giống vật nuôi
có giá trị kinh tế cao như: Vịt chuyên trứng Chiết Giang, vịt Khaki
Campbell, Ngan Pháp, gà Tam Hoàng… khuyến cáo, nhân rộng ra sản xuất góp phần chuyển
dịch cơ cấu vật nuôi, từng bước hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, quy mô
trang trại, gia trại, sản xuất theo hướng hàng hóa.
Lĩnh vực thủy sản đã xây dựng
mô hình và chuyển giao nuôi trồng các đối tượng thủy sản mới như cá Rô
phi đơn tính, cá Vược, ếch Thái Lan, … đặc biệt đã đề xuất đưa giống Tôm
Sú có giá trị cao vào sản xuất, thúc đẩy kinh tế vùng ven biển Tiền Hải
và Thái Thụy phát triển bền vững.
Thông qua các hoạt động khảo nghiệm, xây dựng mô
hình, các lớp tập huấn, đào tạo nghề, thông tin, tuyên truyền, chuyển giao tiến
bộ kỹ thuật, Trung tâm Khuyến nông đã từng bước nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Vì vậy
trong giai đoạn từ năm 1993-2003, với sự đóng góp tích cực của Trung tâm Khuyến
nông đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trong tỉnh phát triển vượt bậc,
đưa năng suất lúa cả năm từ 72,69 tạ/ha năm 1991 lên 126 tạ/ha năm 2002, lương
thực bình quân đầu người 398kg năm 1991 lên 604 kg năm 2002, sản lượng thịt hơi
xuất chuồng 31,8 ngàn tấn năm 1991 lên 60,6 ngàn tấn năm 2002.
3.
Công tác khuyến nông giai đoạn 2003 - 2013
Trong giai đoạn này,
nông nghiệp tỉnh nhà có những bước phát triển vững chắc, tỷ trọng trồng trọt
giảm, tỷ trọng chăn nuôi - thủy sản tăng. Cơ cấu cây trồng đã chuyển dịch mạnh
mẽ, tỷ trọng lúa giảm (đặc biệt là giống dài ngày), tỷ trọng cây rau màu tăng
nhanh, giá trị trên đơn vị diện tích tăng đáng kể.
Hoạt động khuyến nông
giai đoạn này tập trung vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, giống vật
nuôi để nâng cao giá trị trên mỗi đơn vị diện tích, thúc đẩy phong trào
xây dựng cánh đồng thu nhập 50 triệu đồng/ha/năm Qua triển khai công tác khảo
nghiệm, xây dựng mô hình, các giống cây trồng, con vật nuôi mới, có hiệu quả
được khuyến cáo mở rộng, điển hình: giống lúa BC15, D.ưu 527, lúa nếp Lang
liêu, giống ngô nếp MX4, MX10, giống dưa Kim cô nương, Bạch lê,…;
Đặc biệt giống lúa BC15 do cán bộ Trung tâm
Khuyến nông Thái Bình chọn tạo từ dòng đột biến tự nhiên của giống lúa 13/2,
qua nhiều năm duy trì và lọc dòng thuần, năm 2005 giới thiệu đề xuất vào cơ cấu
giống lúa của tỉnh. Hiện nay, giống BC15 đã được Tập đoàn ThaiBinhSeed chọn lọc
và nhân dòng thuần, đến nay trở thành giống lúa chủ lực của Thái Bình và nhiều
địa phương trong cả nước..
Cùng với sử dụng các bộ
giống lúa ngắn ngày đã làm cơ cấu mùa vụ thay đổi, đây là bước đột phá rõ nét
trong thâm canh cây lúa tại Thái Bình và là một trong những tỉnh đi đầu với thời
vụ Xuân
muộn, Mùa sớm. Từ đó mở lối cho phong trào phát triển cây vụ đông của tỉnh,
các mô hình luân canh, xen canh, tăng vụ được phát triển, nhiều mô hình đạt 4-
5 vụ đã hình thành; các mô hình chuyển đổi vụ lúa xuân, lúa mùa trên
chân đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các cây rau màu có giá trị kinh tế
cao được phát động mạnh mẽ. Các mô hình trồng đậu tương trên gốc rạ, trồng đậu
tương trên đất hai lúa để cải tạo đất; mô hình trồng khoai tây bằng phương thức
làm đất tối thiểu, mô hình ứng dụng công thức thâm canh lúa tái sinh để giải quyết vấn đề thời vụ cho
các cây vụ đông ưa ấm, … được phát triển nhân rộng.
Trung tâm xây dựng các mô hình thay đổi phương
thức canh tác như: gieo mạ non trên nền đất cứng, mạ ném, gieo vãi,... Đặc biệt, năm 2010, mô
hình gieo
thẳng bằng công cụ sạ hàng cải tiến theo phương thức hàng rộng hàng hẹp
do cán bộ Trung tâm triển khai đã được Bộ NN& PTNT chọn làm điểm tham quan,
học tập của các đại biểu đến từ 28 tỉnh phía Bắc. Phương thức gieo cấy mới này
đã được đông đảo người dân tiếp cận, giải quyết được vấn đề lao động giai đoạn
thời vụ căng thẳng, đảm bảo thời vụ gieo cấy, tiết kiệm chi phí đầu vào.
Các mô hình thúc đẩy cơ
giới hóa trong sản xuất nông nghiệp như: máy cày, máy gặt, máy suốt... được đưa
vào sản xuất, đã giải phóng sức lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao
hiệu quả, giá trị sản xuất nông nghiệp.
Bám sát định hướng của
ngành nông nghiệp, nhu cầu thị trường cần, các mô hình chăn nuôi theo hướng
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm như chương trình nạc hóa đàn lợn đã được
khẳng định tạo nên một phong trào phát triển chăn nuôi nâng cao giá trị sản phẩm;
mô hình lợn nái nền Móng Cái nhân rộng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lợn sữa. Các
mô hình chăn nuôi an toàn sinh học như mô hình lợn nái ngoại, mô hình
chăn nuôi lợn thịt theo qui trình VietGAHP đã hạn chế dịch bệnh, nâng cao hiệu
quả chăn nuôi; đã xây dựng các mô hình trình diễn, khảo nghiệm đưa một số vật
nuôi mới vào sản xuất: Vịt sinh sản giống Chiết Giang, Cỏ cánh sẻ; các giống
ngan Pháp; các giống gà thả vườn như giống Ri lai Lương Phượng, VP2, gà đẻ trứng
giống UA góp phần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị ngành chăn nuôi.
Trong lĩnh vực thủy sản,
tập trung xây dựng mô hình trình diễn các giống mới, thay đổi phương thức chăn
nuôi đơn thuần sang nuôi bán thâm canh, thâm canh, nuôi xen ghép
đối với một số đối tượng thủy hải sản có giá trị kinh tế cao: Cá Rô Cát Phú, cá
Rô đầu vuông, Ngao, cá Song, cá Vược, cá Đối mục, cá chép V1, cá Trắm đen … ;
mô hình khai thác thủy hải sản bằng lưới rê hỗn hợp, lưới rê ba lớp. … đã mở ra
hướng nuôi trồng thủy sản mới. Mô hình sử dụng chế phẩm vi sinh trong xử lý môi
trường ao nuôi, tạo điều kiện cho các đối tượng nuôi sinh trưởng phát triển, đảm
bảo an toàn dịch bệnh, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả nuôi trồng
thủy sản.
Các tiến bộ kỹ thuật mới,
phương thức canh tác mới, đã được Trung tâm Khuyến nông thông qua công tác khảo
nghiệm, xây dựng mô hình, các lớp tập huấn, công tác tuyên truyền, từ đó người
nông dân được trực tiếp “Mắt thấy, tai nghe” và từng bước áp dụng vào sản xuất
của gia đình.
4.
Công tác Khuyến nông giai đoạn 2013 -2023
Bám sát định hướng của
ngành với mục tiêu đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, phát triển nông nghiệp sinh
thái, hiệu quả và bền vững theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh
tranh, gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ
môi trường sinh thái. Hoạt động khuyến nông trong giai đoạn này đã chú trọng hỗ
trợ các đối tượng nông dân sản xuất hàng hoá, áp dụng kỹ thuật thâm canh tiên
tiến, ứng dụng cơ giới hóa, công nghệ 4.0 vào sản xuất; Khuyến khích phát triển
nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn; Chuyển đổi từ
tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; Tổ chức sản
xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và
chuyển đổi số.
Từ năm 2013-2022, Trung
tâm đã khảo nghiệm 3.598 lượt giống lúa, 1.114 lượt giống ngô, 80 lượt giống lạc,
148 lượt giống khoai tây, 62 lượt giống đậu tương. Từ kết quả khảo nghiệm đã đề
xuất được 1 số giống triển vọng bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh như giống lúa
TBR225, Thiên ưu 8, Đài thơm 8, J02, ST24, ST25; các giống ngô Đường lai 20,
Yelow sweet 1; các giống lạc L22, L28, CNC1; các giống đậu tương như DT2010,
ĐT30 và 1 số giống khoai tây triển vọng Esmee, Rosagold…
Đặc biệt là qua khảo nghiệm
các loại phân bón, các chế phẩm vi sinh, Trung tâm đã xây dựng và chuyển giao
quy trình sử dụng các loại phân vi sinh đa chủng đa chức năng Azotobacterin, chế
phẩm ATYTB,…. giúp phân hủy rơm rạ và tàn dư thực vật thành phân bón, làm tăng
độ phì nhiêu của đất, thay thế cho sự thiếu hụt nguồn phân hữu cơ, tăng sức chống
chịu của cây, tiết kiệm chi phí sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Mô hình ứng dụng cơ giới
hóa, tự động hóa, bán tự động vào sản xuất góp phần tăng năng suất, nâng cao chất
lượng sản phẩm, giảm công lao động đem lại hiệu quả cao như: mô hình trồng hoa,
trồng nấm, trồng dưa … ứng dụng giải pháp nông nghiệp thông minh APPA-TN1, sử dụng
phương pháp tưới nhỏ giọt Knet; Mô hình gieo mạ khay, cấy máy; Mô hình đồng bộ
cơ giới hoá trong sản xuất khoai tây thương phẩm… các mô hình đã giúp giảm công
lao động 30-50% trong khâu trồng, chăm sóc và thu hoạch. Đây là yếu tố quan trọng
khắc phục được tình trạng thiếu hụt lao động lúc thời vụ căng thẳng, giảm tổn
thất trong và sau thu hoạch, thúc đẩy phát triển sản xuất theo quy mô lớn.
Giai đoạn 2013-2022, mô
hình chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm; ứng
dụng công nghệ sinh học sử dụng chế phẩm vi sinh xử lý chất thải trong chăn
nuôi nông hộ phù hợp với điều kiện chăn nuôi trong vùng dân cư, với mật độ chăn
nuôi lớn, diện tích chật hẹp; xây dựng mô hình theo hướng tận dụng nguồn nguyên
liệu sẵn có tại địa phương để sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi nhằm hạ giá
thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế góp phần thức đẩy chăn nuôi phát triển
an toàn, bền vững.
Điểm nổi bật trong giai
đoạn này, Trung tâm đã triển khai mô hình chăn nuôi giống vịt Biển 15 - Đại
Xuyên đã lựa chọn và đưa giống vịt Biển phát triển thành thương hiệu của quê
lúa Thái Bình. Đây là giống Vịt có nhiều ưu thế như khả năng thích nghi tốt
hơn, phù hợp với vùng nước mặn, lợ; năng suất thịt, trứng cao hơn, chất lượng
thịt thơm ngon. Đến nay HTX chăn nuôi tổng hợp Đông Xuyên- Tiền Hải đã xây dựng
thương hiệu và phát triển sản phẩm thịt và trứng Vịt biển được công nhận sản phẩm
OCOP hạng 4 sao, đã mở ra hướng chăn nuôi giống Vịt mới phù hợp vùng nước mặn lợ.
Các mô hình thủy sản thay
đổi phương thức nuôi trồng thủy sản như: Nuôi luân canh tôm Sú - Rong câu; nuôi
tôm Sú quảng canh cải tiến và bán thâm canh; mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng
trong ao bán nổi; nuôi cá Lăng thương phẩm trong lồng bè trên sông. Bên cạnh
đó, đã du nhập các đối tượng nuôi mới như tôm thẻ chân trắng, tôm Càng xanh
toàn đực; cá Vược, cá Hói; cá Rô phi đơn tính; chuyển đổi các vùng nuôi tôm kém
hiệu quả sang nuôi cá Vược; ương nuôi cá Trắm đen bằng nguồn giống sinh sản
nhân tạo,…
Xây dựng các mô hình sử dụng
chế phẩm sinh học trong xử lý môi trường ao nuôi như AT-YTB, BIOWISHD…; ứng dụng
công nghệ BIOFLOC nuôi tôm thẻ chân trắng hai giai đoạn; ứng dụng công nghệ PU
trong khai thác thủy hải sản, xây dựng hầm bảo quản trên tàu đánh bắt xa
bờ đem lại hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường và nguồn lợi hải sản; mô hình
nuôi cá Rô phi theo hướng VietGAP gắn với bao tiêu sản phẩm, mô hình tôm Sú bán
thâm canh an toàn vệ sinh thực phẩm…. đã được bà con đánh giá cao và phát triển
nhân rộng.
Giai đoạn từ 2013 đến
nay, Trung tâm đã xây dựng và triển khai trên 10 đề tài, dự án như: khảo nghiệm,
tuyển chọn một số giống cây trồng mới (lúa, rau, màu); kỹ thuật sinh sản tiên
tiến nhân giống gà Tò; kỹ thuật nuôi vỗ béo bò thương phẩm; Kỹ thuật trồng Cỏ
Voi, ngô sinh khối phục vụ chăn nuôi trâu bò trong tỉnh; Ứng dụng tiến bộ kỹ
thuật sản xuất giống cá Trắm đen, Cá Chuối hoa… tại Thái Bình.
Như mô hình cá trắm đen tại
xã Bình Định, huyện Kiến Xương, chủ hộ đã được cán bộ kỹ thuật của Trung tâm hướng
dẫn kỹ thuật, hỗ trợ con giống, vật tư; và mang lại hiệu quả gần tỷ đồng mỗi
năm. Mô hình đã được các cấp, các ngành đánh giá cao và được nông dân trong và
ngoài tỉnh đến tham quan, học tập.
Đặc biệt, sau 4 năm triển
khai thực hiện đề tài ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào kết hợp khí canh sản
xuất cây giống khoai tây sạch bệnh, Trung tâm đã chủ động về công nghệ sản xuất
củ giống siêu nguyên chủng sạch bệnh đạt tiêu chuẩn QCVN 01-52: 2011/TTBNNPTNT.
Ngoài ra, Trung tâm còn sản xuất cây con bằng phương pháp
khí canh kết hợp ngắt ngọn, dâm bầu. Đề
tài đã đạt giải Ba trong Hội thi sáng tạo
Kỹ thuật của Tỉnh và được Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tặng Bằng khen.
Dự án "Sản xuất lúa
bền vững và giảm phát thải khí nhà kính" triển khai tại Thái Bình
(2017-2021) đã giúp bà con giảm khoảng 0,5 tấn/ha khí nhà kính, 15%
chi phí vật tư đầu vào và tăng năng suất 0,2 tấn/ha so với phương pháp canh
tác lúa truyền thống tại Thái Bình. Các gói công nghệ này đã được bà con nông
dân đang áp dụng từng phần hoặc cả gói công nghệ trong sản xuất lúa tại gia
đình mình.
Để thực hiện chủ trương định
hướng của ngành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất, từ năm 2016-2022, Trung
tâm đã tổ chức trên 400 lớp tập huấn, cho trên 40.000 lượt cán bộ khuyến nông, khuyến
nông viên cơ sở và nông dân trong tỉnh. Từ năm 2013 đến nay, tổ chức 178 lớp
đào tạo nghề cho trên 5400 lao động nông thôn. Các nội dung về chuyển đổi cơ cấu
giống cây trồng, kỹ thuật làm mạ khay cấy máy; kỹ thuật chăn nuôi trâu, bò
thương phẩm, thủy sản nước ngọt và ứng dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất nông
nghiệp, xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc và quảng bá bán sản phẩm nông
nghiệp bằng hình thức online; … đều được chuyển tải qua các lớp tập huấn, đào tạo
nghề; các cuộc khảo sát, học tập tỉnh ngoài, góp phần giúp bà con nông dân phát
triển nông nghiệp theo hướng hiện đại và hiệu quả.
Trong những năm gần đây, thông tin tuyên truyền ngày càng
hiện đại, liên tục đổi mới và tốc độ lan truyền nhanh nhờ các phương tiện, thiết
bị thông minh, hiện đại như ti vi, điện thoại thông minh, mạng Internet. Công
tác thông tin tuyên truyền của Trung tâm ngày càng đa dạng về cách thức, loại
hình, phong phú về nội dung, hình ảnh sinh động. Hàng năm, Trung tâm duy trì xuất
bản 4 số Bản tin/năm; chất lượng Bản tin
khuyến nông ngày càng được nâng lên với nhiều tiểu mục trọng điểm như: Chủ
trương, chính sách; hoạt động khuyến nông; phổ biển kiến thức; gương điển hình
và bổ sung 2 mục mới là “Giới thiệu sản phẩm nông nghiệp Thái Bình và Cây thuốc
quanh ta”.
Từ năm 2013 đến 2022, Trung tâm đã phối
hợp với đài Phát thanh và Truyền hình Thái Bình xây dựng và thực hiện trên 600 chương trình khoa giáo,
thời sự, phóng sự phát vào các chương trình thời sự hàng ngày hoặc trên chuyên
mục “Nhịp cầu nhà nông” vào mỗi tối thứ 2 hàng tuần; xuất bản 56 số Bản tin Khuyến nông với số lượng 27.400
cuốn; đăng gần 1000 bài tuyên truyền trên trang Website của đơn vị. Ngoài ra,
Trung tâm còn phối hợp với các truyền hình
VTV14, VTV16, VTV2, Báo Nông nghiệp, Báo Thái Bình và nhiều cơ quan truyền
thông khác để thực hiện công tác tuyên truyền.
Đến nay, Trung tâm Khuyến nông được coi là
một trong những kênh thông tin về sản xuất nông nghiệp có uy tín và đảm bảo
tính nhanh nhạy, kịp thời. Các nội dung truyền tải được nông dân nhiệt tình
theo dõi, tiếp thu và áp dụng; góp phần không nhỏ giúp các hộ nông dân trong
tỉnh nắm bắt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, tiếp cận được các tiến bộ khoa
học công nghệ mới, các thông tin về thị trường, giá cả nông, lâm, thủy sản,...
để người dân định hướng sản xuất “chuyển đổi từ tư duy
sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp”.
Với những thành tích đã đạt
được trong 30 năm qua, Trung tâm đã được Chủ tịch nước tăng Huân chương lao động
hạng Ba,; Cờ thi đua của Tỉnh Uỷ, HDND, UBND tỉnh, nhiều bằng khen của Bộ Nông
nghiệp và PTNT, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Hiệp hội KHKT Việt nam và nhiều giấy khen của
Giám đốc sở Nông nghiệp và PTNT Thái Bình.
Nhìn
lại 30 năm, những thành tựu mà công tác khuyến nông Thái Bình đã
đạt được đã và đang góp phần tích cực vào sự phát triển nông nghiệp, nông dân
và nông thôn của tỉnh. Những đóng góp tích cực của Trung tâm trong suốt 30 năm
qua góp phần chuyển đổi thời vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp tại Thái Bình phát triển theo hướng hiệu quả, bền vững
Trong thời gian tới,
Trung tâm Khuyến nông Thái Bình sẽ tiếp tục bám sát định hướng của tỉnh, của
ngành với phương châm “Ở đâu có nông dân, ở đó có khuyến nông” để
nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến nông trên tất cả các lĩnh vực thông tin
tuyên truyền, đào tạo tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, khảo nghiệm, ứng dụng
công nghệ vào sản xuất, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nông nghiệp
sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh./.
Một số hình ảnh Hội nghị Tổng kết 30 năm hoạt động Khuyến nông Thái Bình
Đồng chí Lại Văn Hoàn, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh tặng hoa chúc mừng.

Đồng chí Đinh Vĩnh Thụy, Giám đốc sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Thái BÌnh tặng hoa chúc mừng.

Các đại biểu dự hội nghị.

Đồng chí Hoàng Văn Hồng, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
tặng giấy khen cho các tập
thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động khuyến nông.
Đồng chí Vũ Mạnh Thía, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tặng giấy khen cho các tập
thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động khuyến nông.


Tác giả : Ths. Phạm Thị Hiên