I. Chăm sóc
1. Bón phân: Đến giai đoạn này hầu hết
các trà lúa cơ bản đã kết thúc bón phân. Từ nay đến cuối vụ đối với những ruộng
lúa còn đói ăn thì chỉ nên bổ sung bằng phân bón qua lá. Trường hợp những ruộng
quá đói ăn thì giai đoạn lúa thấp tho trỗ( lúa trỗ 5%) có thể bổ sung thêm 1đạm
+ 1kg kali/sào.
2. Điều tiết nước: thực hiện theo chỉ đạo
của Sở Nông nghiệp là “rút cạn lòng sông, giữ nông mặt ruộng”. Đến giai đoạn
này đã là cuối mùa bão nên tuỳ theo mức nước trên ruộng để điều tiết cho hợp lý
đảm bảo mức nước nông trên ruộng giúp cây lúa làm đòng trỗ bông thuận lợi.
II. Phòng trừ sâu bệnh
Vụ mùa thường có các đối tượng sâu bệnh
gây hại chủ yếu như Rầy nâu, cuốn lá, đục thân, khô vằn, bạc lá nếu không phòng
trừ kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất. Để phòng trừ hiệu quả các đối
tượng trên cần hiểu rõ nguyên nhân gây bệnh cũng như đặc điểm phát sinh phát
triển của chúng để có những biện pháp phòng trừ kịp thời.
1. Rầy nâu: Tên khoa
học Nilaparvata lugent là một trong ba loài sâu hại quân trọng nhất trên lúa.
Rầy nâu phát sinh phát triển mạnh trong điều kiện nóng ẩm. Những ruộng trũng
hẩu dồn đạm và trên những giống dễ nhiễm rầy như BT7, T10... rầy thường phát
sinh mạnh. Thông thường nếu trước một thời gian nào đó nhiệt độ không khí cao,
ẩm độ cao lượng mưa nhiều sau đó trời hửng nắng thì rầy nâu dễ phát sinh thành
dịch. Giai đoạn mẫn cảm nhất của cây lúa đối với rầy nâu là khi lúa trỗ – chín.
Do đó khi mật độ rầy đạt 6 – 9con/khóm giai đoạn làm đòng và 17-25con/khóm giai
đoạn lúa trỗ thì cần phun phòng trừ ngay.
Để phòng trừ rầy nâu cần áp dụng các biện pháp
phòng trừ tổng hợp như sử dụng giống kháng rầy, mật độ cấy hợp lý, bón phân cân
đối. Đến giai đoạn này cần thường xuyên thăm đồng, đặc biệt chú ý đến những
điểm thường có các ổ rầy vụ trước. Khi rầy vượt ngưỡng sử dụng các loại
thuốc chọn lọc ít độc hại đối với thiên
địch theo khuyến cáo của BVTV. Đối với diện tích lúa trong giai đoạn trỗ bông,
lá đòng còn xanh dùng thuốc nội hấp lưu dẫn như Actara 25WG, Dantotsu16WSG,
Penalty40WP... Diện tích lúa đã đỏ đuôi, lá chuyển màu vàng dùng thuốc tiếp
xúc, bám dính như Bassa50EC, Penalty gold 5EC... Khi phun thuốc nên rẽ lúa từ 4
- 5 hàng/lối, phun trực tiếp vào nơi rầu cư trú. Chú ý khi phun ruộng cần có
nước để rầy rơi xuống khi bò lên thuốc vít lỗ thở làm rầy chết do đó hiệu lực
của thuốc sẽ cao hơn.
2. Cuốn lá: Tên khoa
học Cnaphalocrocis medinalis. Sâu non nhả tơ cuốn dọc lá lúa và nằm bên trong
ăn biểu bì mặt trên và diệp lục của lá. Khi kiểm tra đồng ruộng dùng tay khua
trưởng thành để xác định mật độ. Khi mật độ trưởng thành là 3con/m2
thì sau 5-7ngày phun phòng trừ ngay. Sâu
non có 5 – 6 tuổi, sâu tuổi 1 và 2 là dễ phòng trừ nhất. Giai đoạn xung yếu
nhất ảnh hưởng lớn đến năng suất là giai đoạn làm đòng – trỗ bông. Khi đã xác
định chính xác lứa sâu thì phòng trừ bằng các loại thuốc chọn lọc như Virtako400WG,
Regent, các thuốc sinh học( hoạt chất Abamectin, Emamectin).... .
3. Sâu
đục thân: Trưởng thành của sâu đục thân thích đẻ trứng ở những ruộng lúa xanh
non, rậm rạp do ban đêm ở mép lá lúa
tiết ra chất NH4 có khả năng dẫn dụ ngài tới đẻ trứng. Trưởng thành lựa chọn đẻ
trứng nhiều nhất ở lúa có đòng già sắp trỗ sau đó đến lúa trỗ 10% gây hiện
tượng bông bạc. Ngài của sâu đục thân 2 chấm ( thưòng gọi là con thiêu thân) có
xu tính rất mạnh đối với ánh sáng đèn. Do vậy có thể dự tính lứa sâu thông qua
số lượng thiêu thân bay vào đèn.
Để
phòng trừ sâu đục thân 2 chấm có nhiều biện pháp tổng hợp. Tuy nhiên từ nay đến
cuối vụ thì cần quan sát và dự tính lứa sâu để phun phòng trừ kịp thời. Lúa
thấp tho trỗ đến đâu cần phun đến đó. Những ruộng “lẻ đồng” lúa trỗ muộn thường
dồn mật độ sâu đục thân rất cao. Đặc biệt là lứa sâu cuối tháng 9 là lứa cuối
cùng trong năm chuẩn bị cho sâu bước vào giai đoạn ngủ đông. Phun phòng trừ sâu
đục thân cần dùng các loại thuốc có tính nội hấp lưu dẫn như Virtako400WG,
Dupond Prevathon, Regent...ngoài ra theo dõi các đợt trưởng thành ra rộ để tổ
chức diệt trưởng thành.
4.
Bệnh khô vằn: Do nấm Rhizoctonia solani gây nên. Bệnh khô vằn phát sinh mạnh
trong điều kiện nhiệt độ cao và ẩm độ cao. Nhiệt độ khoảng 24-320C
và ẩm độ bão hoà thì bệnh phát sinh phát triển mạnh và tốc độ lây lan nhanh.
Giai đoạn trỗ đến chín sáp là thời kì nhiễm bệnh nặng nhất. Bệnh thường phát triển
mạnh ở những ruộng có nguồn bệnh từ trước và bón thừa đạm.
Nguồn
bệnh tồn tại chủ yếu dạng hạch nấm trên đất ruộng và tàn dư sau thu hoặch. Hạch
nấm tồn tại một thời gian dài thậm chí trong điều kiện ngập nước vẫn có tới 30%
số hạch giữ được sức sống nảy mầm thành sợi và xâm nhiễm gây bệnh cho vụ sau.
Hầu hết các giống lúa trong sản xuất hiện nay đều có mức độ nhiễm bệnh từ trung
bình đến nhiễm nặng. Nấm khô vằn là loại nấm “biết bơi” nên ban đầu bệnh thường
phát sinh ở bờ cỏ ven ruộng khi có nước nấm trôi theo nguồn nước lây lan ra
xung quanh. Khi mực nước trong ruộng dâng lên đến đâu thì nấm leo lên đến đó và
xâm nhiễm gây bệnh cho cây. Vì vậy khi phát hiện ổ bệnh ban đầu có thể phun
ngay ổ bệnh đó tránh lây lan ra xung quanh.
Để
phòng trừ cần thu dọn sạch tàn dư sau thu hoạch, cày sâu để vùi hạch nấm, đảm
bảo mật độ cấy hợp lý, bón phân cân đối tránh bón đạm muộn và bón thừa đạm. Khi
bị bệnh dùng Anvil5SC, Valydacin, Valydamycin, tilt .... để phòng trừ.
5. Bệnh bạc lá (BBL): do vi khuẩn
Xanthomonas oryzae gây ra và là một trong những bệnh nguy hiểm nhất trên cây
lúa. Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện nóng, ẩm, mưa gió lớn xảy ra trong
thời kỳ lúa cần quan hợp cao; bệnh rất mẫn cảm với lượng đạm dư thừa trong lá,
do đó những ruộng bón nhiều, bón muộn, bón lai rai, bón không cân đối giữa đạm,
lân và kali, những ruộng trũng hấu dồn đạm cuối vụ, chăm sóc, thâm canh không
đúng kỹ thuật… đều làm cho cây lúa dễ mắc BBL. Bệnh chủ yếu xuất hiện ở các mép
lá, cháy dần từ đầu chóp xuống làm ảnh
hưởng đến quá trình quang hợp của cây giảm năng suất, bị nặng làm các lá bị
cháy, đặc biệt cháy lá đòng làm cho hạt bị lép lửng, chất lượng gạo kém, giảm
năng suất nghiêm trọng từ 25 đến 50%, thậm chí gây thất thu hoàn toàn.
Vi khuẩn thường tụ tập thành những giọt
keo màu vàng nhạt đọng ở mép lá hoặc đuôi lá vào buổi chiều và ở dạng giọt sương
đục màu sữa vào buổi sáng. Khi mưa to, gió lớn, các lá cọ sát nhau, hoặc rách lá
tạo vết thương cơ giới là đường dẫn cho vi khuẩn lây lan từ cây bệnh sang cây
khoẻ.
Phòng
bệnh: Do chưa có thuốc đặc trị BBL, theo khuyến cáo của các nhà khoa học bà con
cần chủ động áp dụng các biện pháp phòng tránh là chính, tập trung vào một số điểm
sau đây: sử dụng giống chống chịu tốt BBL như Nưu 69, BC15, TBR1, Khang dân
18... Tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp kỹ thuật trong thâm canh như: làm đất
kỹ, đủ ngấu, bón phân cân đối NPK và phân tổng hợp NPK có hàm lượng Kali cao.
Chú ý bón nặng đầu, nhẹ cuối
(bón lót sâu, bón thúc sớm hết lượng đạm và kali), nhất là các giống dễ nhiễm
BBL, không bón kali giai đoạn lúa đứng cái vì cây lại huy động đạm lên dễ bị
bạc lá. Với các giống chất lượng, nên cấy lùi thời vụ (25-30/7) để lúa trỗ sau
25/9 đến trước 5/10, sát tiết hàn lộ nhiệt độ giảm, thời tiết mát sẽ đỡ bị
nhiễm bệnh hơn.
Đối với những giống dễ nhiễm phun thuốc phòng chống BBL
ngay sau khi có đợt mưa dông lớn, khi trên ruộng xuất hiện các vết bệnh trên lá
và biểu hiện ban đầu lá có màu xanh đậm hơn, cần phun bằng các loại thuốc: Physan
20l, Lobo 8 WP, Strepguad100SP, Staner 20WP, Xanthomix 20WP… vào sáng sớm hoặc
chiều mát.
Ngoài các đối tượng sâu bệnh hại trên thì vụ mùa năm nay chuột phá hoại
cũng rất nhiều nên bà con cần thường xuyên thăm đồng và tổ chức đánh chuột bằng
thuốc chuột, bằng cạm bán nguyệt, rải nhớt thải quanh ruộng. Khi bị chuột cắn
nên vơ ngay vì chuột có tính đa nghi nên thường đi theo đường cũ và đặt bả tại
đường đi của chuột.