Căn cứ vào đặc
điểm sinh học của
cá bột, cá hương, cá giống ta có thể chia làm 2 giai đoạn ương nuôi như sau:
- Giai đoạn 1: Ương từ cá bột lên cá hương, cá đạt
kích cỡ 2 - 3cm (25 - 30 ngày tuổi);
- Giai đoạn 2: Ương từ cá hương lên cá giống, cá đạt kích cỡ 4 - 6 cm (45
- 60 ngày tuổi).
2. Kỹ thuật ương
nuôi cá giống
2.1. Kỹ thuật ương nuôi cá giống từ giai đoạn cá bột lên
cá hương
- Điều kiện ao
ương: Ao ương cá chép nên sử dụng những ao đã thuần thục (ao đã
sử dụng vài năm), diện tích ao 300 – 600 m2 là thích hợp, độ sâu 0,8
– 1,0 m, pH 6,5 – 8,0 lớp bùn dầy 20 cm.
- Chuẩn bi ao
ương: Tháo cạn ao, dọn
sạch cỏ trong ao và bờ ao, bịt các lỗ rò rỉ, nếu bờ ao lồi lõm thì lấy bùn trát
kín bờ ao để không có chỗ cho ếch nhái, rắn trú ngụ, dùng vôi bột hoặc vôi nước
té đều bờ ao và đáy ao để khử trùng và diệt cá tạp, địch hại. Bón lót cho ao bằng
phân chuồng 30 – 35 kg/100m2, phân nên rắc đều khắp ao, bừa kỹ và
phơi nắng 3 ngày sau đó lấy nước vào ao qua lớp lưới chắn dày để đề phòng cá tạp
vào ao. Sau khi lấy nước vào ao 3 ngày thì có thể thả cá bột.
- Thả cá: Mật độ cá thả từ
100 – 150 con/m2, nên thả cá xuống ao vào buổi sáng sớm hoặc chiều
mát, không thả cá lúc trời sắp mưa to. Khi chuyển cá bột từ cơ sở khác đến ao
ương nên để cả túi cá trong nước ao, chờ 5 - 7 phút rồi tắm cho cá bằng nước muối
2% trong vòng 5 - 10 phút sau đó tiến hành mở túi, cho nước ao vào từ từ để cá
quen dần với môi trường mới, sau đó thả cá ra.
- Cho cá ăn
Thức ăn tự nhiên: Có
thể sử dụng phân chuồng đã ủ với lượng 15 - 20kg/100m2/tuần hoặc
phân xanh với lượng từ 10 - 15kg/100m2/tuần bằng cách phân chuồng rải
đều quanh ao, phân xanh buộc từng bó nhấn chìm dưới nước ở góc ao.
Thức ăn tổng hợp: Nên sử dụng loại thức ăn có hàm lượng đạm tổng số từ 30 – 40%. Trong
10 ngày đầu, thức ăn phải được nấu chín thành cháo, pha loãng bằng nước rải đều
quanh ao. Những ngày sau cho cá ăn thức ăn dạng bột khô. Mỗi ngày
cho cá ăn hai lần vào sáng sớm và chiều mát. Lượng thức ăn mỗi ngày áp dụng như
sau: Tuần thứ nhất cho ăn từ 0,2 - 0,4kg/1vạn cá/ngày, tuần thứ hai từ 0,4 - 0,5kg/1vạn
cá/ngày, tuần thứ ba trở đi cho ăn từ 0,5 - 1,0kg/1vạn cá/ngày.
- Thu hoạch: Nên thu cá hương
sau 25 – 30 ngày nuôi, trước khi thu hoạch 1 tuần nên luyện cá; ngày đầu khua đục
1/4 ao, ngày thứ hai khua đục 1/2 ao, ngày thứ ba khua đục 3/4 ao và tiếp tục
cho cá các ngày còn lại. Chú ý: chỉ luyện cá sau 8 giờ sáng và mỗi lần luyện từ
15 – 20 phút.
Sau khi cá đã được
luyện mới tiến hành thu hoạch, chọn những ngày trời mát, không mưa, dùng lưới
kéo tương đối triệt để rồi mới tát cạn, không kéo quá 2 lần lưới trong 1 ngày,
các thao tác xúc, chuyển cá phải thật nhẹ nhàng, cá sau khi thu phải giữ trong
giai hoặc bể ít nhất 3 giờ thì mới vận chuyển đi xa được.
Trung bình tỷ lệ
sống của cá đạt 30 – 35%, chiều dài 2 – 3cm.
2.2. Kỹ thuật
ương nuôi cá giống từ giai đoạn cá hương lên cá giống
Ao ương cá giống
có thể tận dụng luôn ao ương cá bột lên hương, tuy nhiên cần thả với mật độ
thưa từ 10 – 15 con/m2 hoặc có thể sử dụng ao có diện tích lớn hơn,
các điều kiện khác giống như ao ương cá hương.
Giai đoạn này cho
cá ăn bằng thức ăn tổng hợp có hàm lượng đạm tổng số từ 20 – 30% hoặc các loại
tinh bột. Mỗi ngày cho cá ăn hai lần vào lúc sáng sớm và chiều mát, lượng thức
ăn hàng ngày áp dụng như sau: Tuần thứ nhất
cho ăn từ 1,0 - 2,0kg/1vạn cá/ngày, tuần thứ hai từ 3,0 - 4,0kg/1vạn cá/ngày,
tuần thứ ba từ 4,0 - 5,0kg/1vạn cá/ngày, tuần thứ tư từ 5,0 - 6,0kg/1vạn
cá/ngày, tuần thứ năm từ 6,0 - 7,0kg/1vạn cá/ngày, tuần thứ sáu từ 7,0 - 8,5kg/1vạn
cá/ngày, tuần thứ bảy từ 8,5 - 10kg/1vạn cá/ngày.
- Thu hoạch cá giống sau 45 – 60
ngày ương, cá đạt chiều dài 4 – 6cm. Kỹ thuật thu cá giống cũng giống như thu
cá hương, tỷ lệ sống của cá giống đạt 60 – 70%.
3. Một số bệnh thường gặp trên giống cá Chép
3.1. Bệnh nấm thủy mi
- Tác nhân và dấu hiệu
của bệnh: Gây bệnh là một số
loài thuộc các giống: Leptolegnia, Saprolegnia và Achlya; Họ Saprolegniaceae;
Bộ Saprolegniales. Khi cá bị bệnh trên da cá xuất hiện các vùng trắng xám, sau
vài ngày tại đó mọc lên các sợi nấm mảnh và phát triển lên thành từng búi nấm
trắng như bông, 1 đầu sợi nấm bám vào da của cá, đầu kia tự do ngoài môi trường
nước.
- Biện pháp phòng và trị bệnh
Phòng bệnh: Tiến hành các biện pháp phòng bệnh tổng hợp
gồm vệ sinh ao ương sau mỗi vụ sản xuất và trước khi đưa vào vụ nuôi mới; ương
nuôi cá với mật độ phù hợp; cho cá ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, thức ăn tươi sống
phải được khử trùng; dùng Chlorine để sát trùng, diệt ký chủ của kí sinh trùng;
tránh gây sốc, tránh xây xát trong quá trình san thưa, chuyển ao hoặc phân cỡ
cá.
Trị bệnh: Đối với cá bệnh, có thể sử dụng hóa chất Methylen
2 - 3ppm để tắm cho cá 2lần/ngày, mỗi lần từ 10 - 15
phút và lặp lại 2 lần trong 1 tuần.
3.2. Bệnh kênh mang
- Tác nhân và biểu hiện của bệnh:
Tác nhân chính gây ra
là ấu trùng sán lá Centrocestus formosanus và thích bào tử
trùng Myxobolus sp. Khi
cá chép bị kênh mang thường bơi lờ đờ ở tầng mặt gần bờ, không có phản ứng với
tiếng động; cá có hiện tượng nắp mang hở, không khép kín; cá chết nổi lên bờ và
chết nhiều ở những ao ương dày vào những ngày thời tiết thay đổi.
- Biện pháp phòng và trị bệnh
Phòng bệnh: Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp như trên
Điều trị: Chuyển
cá sang ao khác là tốt nhất (nếu có thể) hoặc tiến hành thay nước và bón vôi khử
trùng. Sau đó sử dụng thuốc Praziquantel
bằng cách cho cá ăn 3 - 5 ngày với liều lượng thuốc 50 - 75mg/kg
thức ăn và cho cá ăn 10 - 15% trọng lượng cơ thể. Lưu ý khi
trộn thuốc Praziquantel vào thức ăn cần có chất bám
dính để thuốc không tan vào nước trước khi vào cơ thể cá bằng cách Có thể dùng
bột gạo nếp khi trộn thuốc vào thức ăn để điều trị cho cá.