1. Giống và cách chọn
giống
Nên chọn giống bò lai nhóm Zê bu (gồm: Redsindhi, Brahmal, Sahiwal) có tầm
vóc lớn.
Chọn những con có thể chất khoẻ mạnh và có những đặc điểm sau: Ngoại hình
cân đối, lông óng mượt, da mềm. Đầu cổ linh hoạt; Mặt ngắn, trán rộng, mắt
sáng, mõm bẹ, bộ răng còn tốt; Lưng dài, thẳng. Ngực sâu, rộng. Bụng tròn, gọn;
Mông nở. Đuôi dài, gốc đuôi to. Yếm rộng. Bao da rốn phát triển; Chân thẳng, bước
đi vững chải, chắc chắn; móng khít.
2. Chuồng trại
Chuồng nên làm cách nhà ở tối
thiều là 4m, hướng chuồng quay về hướng nam hoặc đông nam; đảm bảo
đông ấm hè mát. Diện tích chuồng cần cho 1 con bò, bê từ 2 - 4 m2.
Bố trí máng ăn và máng uống riêng biệt.
Nền chuồng lát gạch hoặc
bê tông để dễ dọn vệ sinh (không làm nền quá nhẵn, bóng dễ làm gia súc trượt
ngã gây chấn thương).
Mái chuồng nên dùng tấm lợp
phibrô - ximăng hoặc bằng vật liệu nhẹ tận dụng tại địa phương, các vật liệu
ít hấp thụ nhiệt làm chuồng nuôi mát mẻ.
Phải xây hố ủ phân để đảm bảo
vệ sinh môi trường. Nếu có điều kiện nên xây công trình khí sinh học gần
chuồng nuôi để xử lý phân và lấy khí đốt dùng cho sinh hoạt gia đình.
3. Chăm sóc nuôi dưỡng theo giai đoạn
3.1.
Nuôi bê từ 1 - 5 tháng tuổi
Từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi, nuôi bê tại
nhà cạnh mẹ, luôn giữ ấm tránh gió lùa, cho bê nằm chỗ khô sạch
Từ tháng thứ 2, tập cho bê ăn cỏ xanh
phơi khô được nắng. Cỏ tươi rửa sạch để ráo, cho bê ăn thức ăn xanh và thức ăn
tinh (Thức ăn tinh: 0,6 - 0,7 kg/con/ngày với
100 gam Protein tiêu hoá 2.800Kcal/kg.)
Từ tháng thứ 4 trở đi tập cho bê ăn thêm
thức ăn củ quả như : khoai lang, bí đỏ,..
Trời nắng ấm tập cho bê vận động tự do
dưới ánh nắng để bê có đủ Vitamin D3, tạo cho bộ xương cứng cáp.
Thức ăn: Thức ăn thô 5 – 7 kg cỏ/con/ngày. Thức ăn tinh 0,6 - 0,8
kg/con/ngày với 100 gam Protein tiêu hoá
2.800Kcal/kg.
3.2. Nuôi
bê từ 6 - 20 tháng tuổi
Khi bê được 6 tháng tuổi tiến hành cai sữa cho bê.
Phương thức nuôi nhốt: Cho bê ra sân vận động 2 - 4 giờ/ngày. Cung cấp đầy
đủ thức ăn xanh, thức ăn tinh hỗn hợp. Thường xuyên cung cấp đủ nước uống cho
bê trong giai đoạn này.
Phương thức chăn thả: Hiện còn khá
nhiều địa phương còn áp dụng phương thức này. Nhưng muốn nuôi bò thịt có hiệu
quả kinh tế cao cần đầu tư thâm canh theo quy trình và chăn nuôi bò lai.
Thức ăn:
Thức ăn thô xanh: 6 tháng tuổi cần 10 kg/con/ngày; 7 - 12 tháng tuổi cần15kg/con/ngày;
13 - 20 tháng tuổi: 30 kg/con/ngày.
Thức ăn tinh: 6 tháng tuổi 0,8 - 1 kg/con/ngày với 100 gam Protein tiêu
hoá và 2.800 Kcal/kg.
3.3.
Nuôi vỗ béo bò từ 21 - 24 tháng tuổi
Nuôi nhốt giảm vận động, tăng cường cho bò ăn các loại thức ăn giàu dinh
dưỡng, năng lượng. Thức ăn tinh 1,5 - 2,5 kg/con/ngày với Protein tiêu hoá 100
gam và 2.800 Kcal/kg thức ăn, kết hợp cho bò ăn thức ăn thô xanh 30 kg/con/ngày
(cỏ tươi hay khô, rơm được xử lý mềm hoá và tăng độ đạm).
Cho bò uống nước đầy đủ: 50 - 60 lít/con/ngày; có thể sử dụng muối ăn pha
với nồng độ 9% cho bò uống.
Thường xuyên tắm chải cho bò để kích thích bò ăn uống khoẻ. Mùa hè tắm 2
lần/ngày. Mùa đông chải khô 1 tuần 2 lần cho bò bằng bàn chải. Kết hợp cho bò tắm
nắng 2 giờ/ngày, giảm nhiệt độ và cường độ ánh sáng chuồng nuôi.
Những con có trọng lượng lớn, bị bệnh chân móng, cần sửa móng.
Xuất bò: Khi bò đã béo đúng tiêu chuẩn, quan sát vùng võng (vùng lưng) đã
béo bằng (nông dân ta thường gọi là "bò béo bằng lưng") thì xuất bán.
4. Vệ sinh phòng trừ
dịch bệnh
4.1. Vệ
sinh thú y phòng bệnh
Để có hiệu quả
trong chăn nuôi, việc ngăn ngừa, hạn chế tối đa bệnh cho bò bê là yếu tố tiên
quyết đến lợi nhuận của người chăn nuôi.
Đối với chuồng trại:
Máng ăn, máng uống
phải được dọn sạch trước khi cho ăn cho uống hàng ngày.
Chất thải rắn như
phân, rác, thức ăn thừa ... phải được dọn ngày 2 - 3 lần ngay trước lúc cho ăn
và phải chuyển ra đúng nơi quy định để xử lý.
Nền chuồng được vệ
sinh ngày 2 lần bằng cào, chổi và vòi bơm trước lúc cho ăn nhằm đảm bảo vệ
sinh, tránh các mầm bệnh theo đường tiêu hoá, hô hấp.
Các rãnh trong chuồng
phải được quét dọn ngày 2 lần, cống rãnh xung quanh chuồng được dọn vệ sinh định
kỳ không được để phân rác tồn đọng.
Nên tiến hành khử trùng thường
xuyên (2 lần/tháng). Sau khi quét vôi xung quanh chuồng, nền chuồng,
rắc vôi bột nền, cống rãnh thì 15 ngày sau nên dùng thuốc khử
trùng phun khắp chuồng, tường mái, nền, cống rãnh.
Trần, tường, chấn
song, cửa của chuồng nuôi phải được
quét dọn định kỳ tránh màng nhện, bụi bẩn.
Luôn có ý thức
phòng bệnh hơn chữa bệnh, chính vì vậy nên chủ động thực hiện đầy đủ pháp lệnh
thú y và quy trình phòng dịch bệnh cho đàn bò. Tốt nhất nên định kỳ lấy mẫu xét
nghiệm, kiểm tra, đánh giá môi trường chăn nuôi, tình hình mầm bệnh để sớm có
biện pháp tiêu diệt, khử trùng, thanh toán mầm bệnh không cho chúng xâm nhập
vào đàn bò.
Tiến hành tiêm phòng định kỳ 2 lần/năm các bệnh
truyền nhiễm như: Lở mồm long móng, tụ huyết trùng,...theo
qui định của thú y. Tẩy giun đũa cho bê định kỳ vào tháng thứ nhất, tháng thứ 3
và tháng thứ 9 bằng Piperazin 2 - 3g/10 kg trọng lượng. Cho uống hoặc tiêm 5 mg
Levamisol/10 kg trọng lượng. Nếu bò ỉa chảy liên tục có mùi tanh khẳm, xù lông
sáng sớm và chiều tối cần tẩy sán lá gan bằng cách tiêm bắp: Dovernix 1ml/15 kg
trọng lượng hoặc cho uống Dertil B1 liều lượng viên/50 kg
trọng lượng.
4.2.
Tiêu diệt các nhân tố trung gian truyền bệnh:
Đối với những bệnh
truyền nhiễm có thể lây lan rất nhanh từ con ốm sang con khoẻ qua các nhân tố
trung gian thông qua trực tiếp hoặc gián tiếp chính vì vậy ta phải tiêu diệt hoặc
hạn chế nguồn bệnh reo rắc ra bên ngoài. Để làm được việc đó yêu cầu người chăn nuôi
phải phát hiện sớm, chủ động và tích cực, cách ly triệt để những con bệnh xa hẳn
những con khoẻ đồng thời kết hợp điều trị trực tiếp những con bị bệnh và điều
trị dự phòng những con vật có khả năng lây bệnh.
Đối với các nhân tố
trung gian truyền bệnh cần phải cắt đứt đường truyền bệnh bằng cách xoá bỏ các
nhân tố trung gian như vệ sinh thức ăn, nước uống, vệ sinh chuồng trại, thân thể
bò và cuối cùng là phải thực hiện tiêu độc, tiêu diệt côn trùng, chuột...
Đối với gia súc bị
bệnh cần phải cách ly triệt để, điều trị dứt điểm khi khỏi hẳn mới cho nhập vào
vị trí cũ.
Tác giả : KS. Trần Văn Trung