1. Giống, thời vụ
- Giống: Lạc làm giống nên chọn loại lạc vừa (không già, không
non), không bị sâu bệnh, hạt giống to, mẩy, vỏ sáng, không sây sát, tỷ lệ
nảy mầm cao. Nên chọn các loại giống có chất lượng tốt, năng suất cao như L14,
TB25…
Lượng
giống: 7 - 8 kg lạc củ/sào.
- Thời vụ: Gieo trồng xung quanh tiết Lập xuân (4/2 Dương lịch). Sau Lập xuân thời tiết cơ bản
sẽ hết rét đậm, rét hại, có mưa xuân, ẩm độ, nhiệt độ không khí tăng dần, thuận
lợi cho cây lạc nảy mầm, sinh trưởng phát triển.
2. Đất trồng và làm đất
- Đất trồng: Lạc là cây trồng chịu
được hạn nhưng không chịu được ngập úng, do vậy đất trồng lạc cần chọn các chân
ruộng cao, thoát nước nhanh. Đặc biệt, tia
củ lạc hình thành trên mặt đất rồi đâm xuống đất để phát triển củ, nên cần
trồng lạc trên các chân ruộng đất cát pha, thịt nhẹ tơi xốp, thoáng khí. Không trồng lạc trên đất đã trồng lạc liên tục nhiều
năm, lạc rễ bị nhiễm bệnh héo xanh vi khuẩn hoặc thối quả nặng.
- Làm đất: Tiến hành làm sạch cỏ, cày bừa thật nhỏ, sau đó lên luống rộng 1,0 - 1,5 m, luống cao 25 - 30
cm. Trên đất
bãi, đất chuyên màu có khả năng thoát
nước có thể trồng theo băng, mỗi băng rộng 5 - 6 m rạch hàng theo chiều ngang
luống. Hướng của luống phù hợp để dễ thoát nước.
3. Gieo hạt
-
Trước khi gieo, nên phơi lại dưới nắng nhẹ 3 - 4 giờ.
-
Gieo lúc đất ẩm, nếu đất khô nên tưới vào rạch để hạt dễ nảy mầm, gieo hạt cách
xa vị trí bón phân lót, không được để hạt tiếp xúc trực tiếp với phân bón. Khi gieo xong cần lấp một lớp đất dày 1 - 2
cm phủ kín hạt.
Mật
độ: Trung bình từ 33 - 35 cây/m2, hàng cách hàng: 25 - 28 cm, cây cách
cây: 10-12cm, gieo 1 hạt/hốc.
4. Phân bón
“Không lân không vôi thì thôi trồng lạc” là kinh nghiệm
luôn đúng trong kỹ thuật trồng lạc. Lân và vôi đóng vai trò rất quan trọng đối
với sinh trưởng phát triển, cũng như quá trình tạo hoa, quả của cây lạc. Lạc
yêu cầu bón đủ phân hữu cơ, lân và vôi.
- Lượng phân/sào: Phân
chuồng 2 - 3 tạ hoặc 15 - 20 kg phân hữu cơ
vi sinh; Lân 18 - 20 kg; Vôi 20 - 30 kg; Đạm ure 2 - 4 kg; Kali 3 - 4 kg.
- Cách bón:
+ Bón lót: Toàn bộ phân chuồng, phân lân và 1/2 lượng
vôi, trộn đều và rải xuống rạch. Sau khi bón phân xong lấp một lớp đất dày 2 - 3 cm để hạt gieo không bị tiếp xúc trực tiếp với phân.
+ Bón thúc: Cần bón phân thúc sớm, kịp thời kết hợp vun xới
để cây sinh trưởng tốt, tăng tỷ lệ đậu hoa, đậu quả.
Khi cây có 2 -
3 lá thật, bón toàn bộ đạm + 1/2 kali.
Khi cây có 6
- 7 lá thật, bón hết lượng phân còn lại xới sâu 5-6 cm quanh gốc.
Sau
khi lạc ra hoa rộ từ 7 - 10 ngày bón hết lượng vôi còn lại, không trộn vôi với loại phân nào khác.
Lưu ý: Không bón đạm và kali sát gốc.
5. Chăm sóc:
- Dặm tỉa: Cần tiến hành sớm khi cây có
1-2 lá thật để không bị chột cây.
- Vun xới:
+ Lần 1: Khi cây có
2 -3 lá thật, cần xới phá váng, không vun để tạo độ thoáng dưới gốc, tạo điều
kiện cặp cành cấp 1 phát triển tốt.
+
Lần 2: Khi cây có 7 - 8 lá thật
(trước khi ra hoa), cần xới sâu 5 - 6 cm giữa hàng tạo cho đất tơi xốp, thoáng
khí, để lạc sinh trưởng phát triển tốt, chú ý không vun gốc.
+ Lần 3: Sau khi
lạc ra hoa rộ 7 - 10 ngày (loạt hoa đầu tàn): tiến hành vun cao gốc lạc tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình đâm tia, tạo quả và hạt.
- Tưới nước:
Sau
các trận mưa phải tiến hành khơi nước triệt để ngay.
Nếu
khô hạn cần phải tưới nước đủ ẩm để cây lạc
sinh trưởng phát triển tốt. Thời kỳ trước ra
hoa và thời kỳ làm quả cần đủ ẩm, nên tưới vào rãnh ngập
2/3 luống, để nước tự ngấm rồi tháo cạn.
Chú
ý giai đoạn cây con nếu gặp mưa ẩm nhiều dễ bị bệnh lở cổ rễ cần xới phá váng
và phun phòng bằng thuốc Validacin hoặc Anvil; giai đoạn cuối nếu gặp mưa lớn cần thoát nước cho
lạc kịp thời để tránh gây mọc mầm, thối quả làm giảm năng suất, chất lượng.
6. Phòng trừ sâu bệnh: Áp dụng biện pháp phòng
trừ tổng hợp, thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để phòng trừ kịp thời theo
khuyến cáo của ngành chuyên môn.
7. Thu hoạch: Khi
tầng lá gốc vàng rụng, tầng lá giữa chuyển vàng dần, nhổ kiểm tra thấy trên 80%
quả già (quả đã có gân điển hình của giống, mặt trong vỏ chuyển màu đen, nhẵn,
vỏ lụa có màu đặc trưng) thu hoạch lạc sẽ cho năng suất, chất lượng lạc cao
nhất.
Tác giả : ThS. Nguyễn Thị Nguyệt